3.
KHU VỰC HÀ TÂY TẨU LANG TRÊN HÀNH LANG HÀ TÂY
Từ
Lan Châu (Kim Thành của khu vực Lũng Sơn), đi về hướng
Tây, sau khi vượt Ô Tiêu Lãnh, lữ khách tiến vào địa
phận Hà Tây Tẩu Lang. Phía Nam vùng này là ngọn Kỳ Liên
Sơn quanh năm tuyết phủ, phía Bắc là Lũng Thủ Sơn và
Thái Sơn (cũng còn gọi Bắc Sơn). Hà Tây Tẩu Lang nằm
trên một vùng đất dài, hẹp và bằng phẳng, phía Đông
lên đến Ô Tiêu Lãnh, Tây đến biên giới giữa Cam Túc
và Tân Cương. Bao gồm cả Cam Châu, Túc Châu, An Tây và
Đôn Hoàng. Đó là những thành thị trải dài trên 1200
km, rộng hơn 100 km. Vì nằm ở phía Tây Hoàng Hà nên gọi
“Hà Tây Tẩu Lang”. Vào thời cổ đại, đây là yết
hầu của Con đường Tơ lụa.
Lương
Châu vào đời Đường còn có tên Cô Tàng (châu trị nay
là huyện Vũ Uy Cam Túc). Lương Châu đương thời là một
thành thị phồn hoa. Nhà thơ Đường Lý Ích đã từng
trong quân 10 năm, trường kỳ sinh hoạt nơi biên tái. Ông
thường làm thơ ngay cả lúc vung đao trên ngựa, lúc uống
rượu trong quân doanh hoặc trên biên tái vắng vẻ. Cho
nên thơ ông từ ngôn ngữ đến nội dung đều nói lên ý
chí khẳng khái. Khi Đến Lương Châu Lý Ích có viết bài
thất tuyệt “Biên Tứ”:
遍思
李益
腰悬錦帶佩吳鈎
走馬曾防玉塞秋
莫笑關西將家子
只將詩思入凉州
Âm:
BIÊN
TỨ (Lý Ích)
Yêu
huyền cẩm đái bội Ngô Câu,
Tẩu
mã tằng phòng Ngọc Tái thu.
Mạc
tiếu Quan Tây tương gia tử,
Chỉ
tương thi tứ nhập Lương Châu.
Dịch:
NGHĨ
VỀ BIÊN TÁI
Lưng
đeo đai gấm tay vung đao,
Vó
ngựa tung hoành Quan Ải thu.
Đừng
cười con cháu Quan Tây địa,
Chỉ
đem thi tứ đến Lương Châu.
Bài
thơ như một chân dung tự họa của Lý Ích. Lưng đeo đai
gấm, tay cầm đao Ngô Câu, phi ngựa ra quan ải phòng thủ
biên tái. Xin đừng cười ta là con nhà tướng đất Quan
Tây mà chỉ đem thi tứ đến Lương Châu. Lý Ích là nhà
thơ người Lương Châu, nên dù vung đao trên ngựa nơi
biên ải cũng không rời bản chất thi nhân.
Từ
Lương Châu đi về phía Tây hơn 200 km sẽ đến Cam Châu
(nay là Trương Dịch Cam Túc), một thành phố thương mại
trên Con đường Tơ lụa. Đây cũng là điểm hội tụ hai
tuyến Bắc Nam của Con đường Tơ lụa, kể từ lúc rẽ
đôi khi ra khỏi Hàm Dương. Trung Quốc trước Tùy Đường
khoảng 300 năm, do nội địa chiến tranh không ngừng nghỉ,
vấn đề mậu dịch tại một số nơi không tiến hành
được, phải di dời hết tới Cam Châu. Liên tục tới
đời Đường Cam Châu vẫn là một thành phố thương mại
phồn thịnh.
Phía
Đông Nam Cam Châu là tòa núi trứ danh Yên Chi Sơn (còn có
tên Yến Chi Sơn). Trên núi sản sinh một loài thực vật
gọi “Hồng Lam Hoa”, người xưa dùng nhựa của loài
hoa này, trộn thêm phụ gia, chế thành mỹ phẩm cho phụ
nữ. Núi Yên Chi từ đầu Tây Hán đã từng bị Hung Nô
chiếm giữ. Sau này Hán Vũ Đế cử tướng Hoắc Khứ
Bệnh đem quân đại phá Hung Nô, chiếm lại Yên Chi Sơn.
Do đó người Hung Nô có sáng tác một bài dân ca “Hung
Nô Ca”:
匈奴歌
民歌
失我焉支山
令我婦女無顏色
失我祁連山
使我六畜不藩息
Âm:
HUNG
NÔ CA (Dân Ca)
Thất
ngã Yên Chi Sơn,
Linh
ngã phụ nữ vô nhan sắc.
Thất
ngã Kỳ Liên Sơn,
Sử
ngã lục súc bất phiên tức.
Dịch:
BÀI
CA CỦA NGƯỜI HUNG NÔ
Mất
núi Yên Chi,
Khiến
phụ nữ ta không nhan sắc.
Mất
núi Kỳ Liên,
Khiến
súc vật ta tiêu tán hết.
Kỳ
Liên Sơn nằm về Nam bộ Hà Tây Tẩu Lang. Tiếng Hung Nô
“Kỳ Liên” là trời (Thiên), do đó Kỳ Liên Sơn cũng
còn được gọi Thiên Sơn. Vì đỉnh Kỳ Liên Sơn quanh
năm tuyết phủ nên cũng được gọi Tuyết Sơn hay Bạch
Sơn. Những vùng đất dưới chân Kỳ Liên Sơn nhờ nguồn
nước tuyết tan trên đỉnh chảy xuống nên cỏ nước
dồi dào, thích hợp phát triển nghề chăn nuôi. Kỳ Liên
Sơn từ đầu Tây Hán cũng bị Hung Nô trường kỳ chiếm
lĩnh, về sau cũng do tướng Hoắc Khứ Bệnh đem quân đánh
dẹp Hung Nô thu hồi lại, cũng như đã thu hồi Yên Chi
Sơn. Do vậy mà người Hung Nô mới có bài dân ca than oán
sầu não này.
Tại
phía Tây Y Châu (nay là Cáp Mật Tân Cương), cũng có dãy
Thiên Sơn (nằm ngang Trung bộ Tây Vực), chỉ trùng địa
danh chứ không cùng địa phương với Thiên Sơn (Kỳ Liên
Sơn). Do người xưa chưa hiểu rõ địa lý nên cứ tưởng
lầm hai nơi là một. Hình ảnh Thiên Sơn xuất hiện trong
tác phẩm của nhiều nhà thơ đương thời, hầu hết, là
tên gọi thứ hai của Kỳ Liên Sơn chứ không phải Thiên
Sơn của Tây Vực.
Nhà
thơ Lý Ích khi hành quân qua Cam Châu cũng có viết hai bài
thất tuyệt bất hủ, mô tả cảnh tượng thiên nhiên và
chiến tranh về Kỳ Liên Sơn, đầu tiên là bài “Tòng
quân Bắc chinh”:
從軍北征
李益
天山雪厚海風寒
橫笛偏吹行路難
磧里征人三十萬
一時回首月中看
Âm:
TÒNG
QUÂN BẮC CHINH (Lý Ích)
Thiên
Sơn tuyết hậu hải phong hàn,
Hoành
địch thiên xuy hành lộ nan.
Thích
lý chinh nhân tam thập vạn,
Nhất
thời hồi thủ nguyệt trung khan.
Dịch:
THEO
QUÂN ĐI CHIẾN ĐẤU PHƯƠNG BẮC
Gió
biển lùa vào, núi Tuyết tan,
Sáo
đâu đưa khúc “Hành Lộ Nan”.
Ba
chục vạn binh nơi sa mạc,
Ngoảnh
nhìn quê cũ một đêm trăng.
Hơn
10 năm trong quân, Lý Ích chưa từng tới Tây Vực, do đó
từ “Thiên Sơn” trong bài thơ cũng phải hiểu là “Kỳ
Liên Sơn” chứ không phải “Thiên Sơn” của Tây Vực.
Còn từ “Hải phong” tức gió từ hồ Thanh Hải thổi
vào Kỳ Liên Sơn. Bài thơ tả cảnh tuyết tan trên Kỳ
Liên Sơn và những cơn gió lạnh thấu xương từ hồ
Thanh Hải thổi vào. Tiếng sáo trong quân chợt trỗi lên
khúc “Hành Lộ Nan” buồn bã, khiến cho 30 ngàn quân sĩ
trên sa mạc cùng vọng về cố hương trong một đêm
trăng.
Trong
bài thất tuyệt thứ hai, Lý Ích mượn sự tích các danh
tướng Hán Đường, đã lập nhiều chiến công hiển hách
bảo vệ biên cương, để diễn tả lòng dũng cảm của
sĩ binh Đường triều nơi biên tái, bài “Tái Hạ Kúc”:
塞下曲
李益
伏波惟愿裹尸還
定遠何須生入關
莫遣只輪歸海窟
仍留一箭射天山
Âm:
TÁI
HẠ KHÚC (Lý Ích)
Phục
Ba duy nguyện khỏa thi hoàn,
Định
Viễn hà tu sinh nhập Quan.
Mạc
khiển chỉ luân qui hải quật,
Nhưng
lưu nhất tiễn xạ Thiên San.
Dịch:
KHÚC
HÁT DƯỚI ẢI
Phục
Ba nguyền bọc thây da ngựa,
Ban
Siêu còn trở lại Ngọc Quan?
Chớ
cho địch lũi về hang ổ,
Mũi
tên còn lại gởi Thiên San.
Bài
thơ mượn cố sự các danh tướng Mã Viện, Ban Siêu và
Tiết Nhân Quí. Mã Viện, một danh tướng nhà Đông Hán,
từng được phong “Phục Ba tướng quân”. Thời trai trẻ
họ Mã đã nói: “Hiện nay Hung Nô đang quậy phá khắp
vùng Bắc bộ biên cảnh, ta chỉ mong được triều đình
phái tới đó thảo phạt. Nam tử Hán phải chết trên
chiến trường mượn da ngựa bọc thây”. Mấy từ “Khỏa
thi hoàn” (bọc xác đem về) là ý đó. “Định Viễn”
chỉ danh tướng thông Tây Vực Đông Hán “Định Viễn
hầu Ban Siêu”. Họ Ban đã chiến đấu anh dũng tại Tây
Vực hơn 30 năm. Khi về già chạnh nhớ quê, thỉnh nguyện
triều đình, xin được trở lại Ngọc Môn Quan để hồi
hương. Mấy từ “Sinh nhập Quan” (sống trở lại Ngọc
Môn Quan) là ý đó.
“Nhất
tiễn xạ Thiên Sơn” (một mũi tên bắn lên Thiên Sơn)
chỉ cố sự Tiết Nhân Quí. Họ Tiết là danh tướng
Đường triều suốt hai đời vua (Đường Thái Tông và
Đường Cao Tông). Thời kỳ họ Tiết đương chức Tổng
quản Thiết Lặc đạo, Đột Quyết (phía Bắc sa mạc Á
Châu tức Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) thống lãnh hơn 10 vạn
binh của 9 họ, định vượt Thiên Sơn (Kỳ Liên Sơn) xâm
nhập Trung Nguyên. Tiết Nhân Quí đem hơn 10 kỵ binh mở
đường, không ngờ chạm trán quân địch. Đột Quyết
thấy quân ông ít, chỉ điều vài chục kỵ binh tinh nhuệ
giao chiến. Tiết Nhân Quí hét lớn “Hãy xem phép bắn
cung của ta”. Liền hai mũi tên bay ra, hai kỵ binh Đột
Quyết rớt ngựa tại chỗ. Địch quân hoảng sợ không
dám tiến, chỉ trố mắt nhìn cung tên trên tay Tiết Nhân
Quí. Lần này họ Tiết chỉ bật giây cung làm động tác
giả, quân địch sợ hãi tránh né tứ tán. Ông cười nói
lớn: “Thật là vô dụng, ta chưa bắn mà đã hoảng sợ,
bây giờ ta sẽ lựa một người nhiều râu gởi một mũi
tên”. Tên tướng có râu trong quân Đột Quyết nghe nói
hoảng sợ quày đầu ngựa định chạy, đâu ngờ mũi tên
đã ghim trúng y, rớt ngựa tại chỗ. Lúc đó đại quân
Đường triều cũng vừa kéo tới. Đột Quyết đầu hàng
toàn bộ. Tiết Nhân Quí còn một mũi tên trong tay, bèn
giương cung gởi tặng Thiên Sơn (Kỳ Liên Sơn). Quân Đường
cất tiếng hát vang “Tướng quân tam tiễn định Thiên
Sơn, chiến sĩ trường ca nhập Hán quan” (Tướng quân (
Tiết Nhân Quí) chỉ cần 3 mũi tên đã ổn định quân
Đột Quyết tại Thiên Sơn. Chiến sĩ ca vang kéo quân trở
về quan ải). Những nhà thơ sau này khi đi qua Kỳ Liên
Sơn, làm thơ thù tạc vịnh cảnh, cũng không quên nhắc
tới giai thoại “Nhưng lưu nhất tiễn xạ Thiên Sơn”
(Còn một mũi tên bắn gởi Thiên Sơn) của Tiết Nhân
Quí.
Rời
Cam Châu, đi về phía Tây khoảng 200 km, đến Túc Châu
(nay là Tửu Tuyền Cam Túc). Túc Châu có một địa danh
nổi tiếng Thế Giới, đó là Gia Dụ Quan, quan ải cuối
của Vạn Lý Trường Thành, một cửa ngõ xung yếu thông
về 3 hướng. Từ Gia Dụ Quan, theo Con đường Tơ lụa đi
về hướng Tây sẽ đến Tây Vực, hướng Nam đến Thanh
Hải, hướng Bắc đến cổ thành Cư Diên. Túc Châu từ
xưa đến nay là một thành phố thương mại phồn thịnh
của khu vực Hà Tây Tẩu Lang, nay thuộc tỉnh Cam Túc
(tỉnh Cam Túc do Cam Châu và Túc Châu hợp lại mà thành).
Túc
Châu, do một đoạn truyền thuyết dân gian, còn có tên
Tửu Tuyền. Thời Hán Vũ Đế, Hung Nô thường xâm nhập
cướp phá biên cảnh. Hán Vũ Đế phái phiêu kỵ tướng
quân Hoắc Khứ Bệnh đem quân đánh dẹp. Hoắc tướng
quân đã đánh tan quân Hung Nô tại Hà Tây. Hán Vũ Đế
phái sứ giả từ Trường An, đem đến bang cho Hoắc Khứ
Bệnh một bình Ngự Tửu (rượu vua bang). Hoắc tướng
nghĩ, một bình Ngự Tửu không thể nào chia xẻ đủ cho
đại quân. Ông bèn đem bình rượu đổ xuống một dòng
suối gần đó và ra lệnh toàn quân cùng xuống uống nước
suối, coi như mọi người cùng được uống rượu vua
ban. Từ đó dòng suối có tên “Tửu Tuyền” (suối
rượu). Vì đoạn suối này nằm vào địa phận Túc Châu,
nên Túc Châu cũng được gọi “Tửu Tuyền”. Hiện nay
trong công viên Tửu Tuyền (Cam Túc) có một giếng nước,
tương truyền đó là nơi Hoắc Khứ Bệnh đổ rượu.
Truyền
thuyết vẫn chỉ là truyền thuyết. Theo sự thực lịch
sử thì chuyện Hoắc Khứ Bệnh đổ rượu xuống suối
không đáng tin. Vì Hoắc tướng qua đời vào năm Nguyên
Thú thứ 6 Hán Vũ Đế (117 TCN), trong khi quận Tửu Tuyền
được thành lập vào năm Nguyên Đỉnh thứ 6 Hán Vũ Đế
(111 TCN). Theo những ghi chép ngày nay thì, nước suối này
“Ngọt và thơm như rượu” nên có tên “Tửu Tuyền”.
Nhưng sự kiện tướng Hoắc Khứ Bệnh đánh tan Hung Nô,
Hán triều tái kiểm soát khu vực Hà Tây Tẩu Lang để
khai thông Con đường Tơ lụa, vẫn là sự thực lịch sử.
Nhà
thơ Thịnh Đường Vương Xương Linh khi hành quân qua Túc
Châu (Tửu Tuyền) có viết một bài thất tuyệt (bài thứ
2 trong đề tài “Tòng Quân Hành”), nhà thơ mô tả đôi
nét đặc trưng về cảnh vật và con người vùng biên tái
này.
從軍行
(其二)
王昌齡
琵琶起舞換新聲
總是關山舊別情
撩亂邊愁彈不盡
高高秋月照長城
Âm:
TÒNG
QUÂN HÀNH (bài 2) Vương Xương Linh
Tỳ
bà khởi vũ hoán tân thanh,
Tổng
thị quan san cựu biệt tình.
Liêu
loạn biên sầu đàn bất tận,
Cao
cao thu nguyệt chiếu Trường Thành.
Dịch:
BÀI
HÁT THEO QUÂN
Tì
bà ôm múa hát thêm lời,
Đều
khúc chia ly chốn diễn khơi.
Bối
rối sầu xa đàn chẳng dứt,
Trường
Thành cao ngất bóng trăng chơi.
Lê
Nguyễn Lưu dịch
Diễn
tả nổi buồn của những sĩ binh trấn thủ biên cương
bằng thủ pháp hết sức độc đáo. Một đêm trăng,
chiến sĩ tề tựu nhảy múa theo điệu đàn Tì Bà. Khung
cảnh tưởng chừng rất vui, nhưng nội tâm mỗi người
là một nỗi buồn không giải được. Tiếng Tì Bà cứ
tái đi tái lại khúc nhạc buồn “Quan San Nguyệt”.
Những chiến sĩ từ lâu nơi quan ải chưa được về nhà
càng thêm tâm sầu ý loạn, trong khi vầng trăng thu vẫn
chiếu xuống từ Trường Thành cô quạnh.
Từ
đời Hán trở đi, Túc Châu là vùng biên tái chiến tranh
không bao giờ dứt. Khoảng giữa Cam Châu và Túc Châu có
con sông Quý Tiết Hà (còn gọi Nhược Thủy hoặc Ngạch
Tế Nạp Hà) phát nguyên từ Kỳ Liên Sơn chảy về hướng
Bắc. Nhược Tủy thời cổ đại có một truyền thuyết
khá lý thú. Nói là dòng sông không có sức nổi (phù
lực), ghe thuyền không đi được, thậm chí lông hồng lá
cỏ ném xuống đó cũng chìm. Sự thực vì dòng Nhược
Thủy quá cạn, ghe thuyền không đi được rồi người ta
nhân đó thêu dệt thêm.
Nhược
Thủy thời cổ đại chảy về hướng Bắc nhập vào Cư
Diên Hải, làm thành một hồ lớn trong lục địa. Từ
đời Đường hồ bị bồi lấp nhỏ dần, hiện nay trên
bản đồ chỉ còn lại một hồ nhỏ. Nhược Thủy tiếp
tục chảy về Bắc còn nhập vào hồ Tô Cổ Nặc Nhĩ và
hồ Ca Thuận Nặc Nhĩ, trong nội địa. Vị trí địa lý
cho thấy hai hồ này là bộ phận của Đại Cư Diên Hải.
Nhưng từ đời Đường cũng bị bồi lấp, chỉ còn lại
Cư Diên Hải nhỏ. Nếu không có hồ Tô Cổ Nặc Nhĩ và
hồ Ca Thuận Nặc Nhĩ, thì nơi này chỉ còn là một ao
trì khô cạn. Sau này Nhược Thủy được cải tạo, tích
thủy lại thành hồ lớn.
Hạ
lưu Nhược Thủy và hai hồ phụ cận do có nguồn nước
sinh sống, hình thành một vùng đất có màu xanh lục giữa
sa mạc Ngạch Tế Nạp. Tiếng Mông Cổ “Ngạch Tế” là
mẹ. Yù nói vùng đất màu xanh giữa sa mạc này thương
yêu con người như tình mẹ bao la.
Trên
2.000 năm trước (Tây Hán), vùng xanh Ngạch Tế Nạp đã
được khai khẩn thành nông điền. Vương triều Tây Hán
vì muốn bảo vệ sự thông suốt của Con đường Tơ lụa
(khu vực Hà Tây Tẩu Lang), nên đã thiết lập Cư Diên
Thành ở phụ cận Lục Châu, xây dựng tường thành,
doanh trại, các thiết bị quân sự và cử một Cư Diên
Đô Úy quản lý. Di tích Cư Diên Thành còn lại ngày nay
bên bờ Nhược Thủy là những mẫu tường thành đứt
đoạn và 200 nơi Phong Hỏa đài, mỗi Phong Hỏa đài cách
nhau từ một đến hai dặm. Tưởng tượng mỗi khi có
cảnh báo địch nhập xâm, cả 200 Phong Hỏa đài đều
đốt lửa, cảnh tượng thật trang nghiêm và rực rỡ.
Vùng
Lục Châu và Cư Diên Thành nhiều thế kỷ về sau, khí
hậu ngày càng khô kiệt, còn lại cơ hồ toàn sa mạc,
hiếm thấy một làn khói bếp. Nhưng trong đất cát,
khoảng giữa những mẫu tường thành sụp đổ, còn chôn
vùi vô số văn vật thời cổ đại. Trong vòng mấy chục
năm, người ta đã đào được vô số tư liệu văn vật
giá trị được ghi chép trên “Cư Diên Hán giản” (Giản
là phiến gỗ hoặc thẻ tre, thời cổ đại dùng để ghi
chép văn tự). Hằng vạn “Cư Diên Hán giản” đào được
trong lần khai quật này, hiện đang lưu giữ tại thư viện
Quốc Hội Mỹ. Trong vòng 70 năm đầu thế kỷ 20, những
đội công tác khảo cổ Trung Quốc còn đào thêm được
hơn hai vạn “Cư Diên Hán giản” khác. Trong đó phát
hiện một Giản ghi chép rõ lộ trình (có cả vị trí các
dịch trạm) từ Trường An đến Cư Diên Thành. Tư liệu
này rất có ý nghĩa cho việc nghiên cứu cụ thể các lộ
tuyến của “Con đường Tơ lụa ”.
Thời
Võ Tắc Thiên, Đô đốc Kim Huy châu Phó Cố Thủy không
nghe lệnh triều đình, sách động bộ hạ âm mưu tạo
phản. Năm Thùy Củng thư 2 (CN 686), Võ Tắc Thiên mệnh
cho Tả Báo Thao Vệ tướng quân Lưu Kính Đồng đem kỵ
binh Hà Tây theo ngã Cư Diên Hải đi thảo phạt, và đặc
mệnh Tả Bổ Khuyết Kiều Tri Chi tạm thay thế Thị Ngự
Sử Hộ Binh.
Nhà
thơ Sơ Đường Trần Tử Ngang, năm 28 tuổi, gia nhập quân
đội theo Kiều Tri Chi ra quan tái. Tháng tư Âm lịch đại
quân kéo đến bờ Nhược Thủy, tháng 5 vượt Cư Diên
Hải. Phía trước là vùng biên tái sa mạc, khí hậu giá
buốt. Nhà thơ ngẫu nhiên nghe tiếng Oanh hót trong vòm
cây, lòng nhớ quê trỗi dậy, họ Trần đã viết bài ngũ
luật “Cư Diên Hải thụ văn Oanh đồng tác”, kết hợp
nỗi lòng với những sự tình quá khứ còn in hằn quanh
đây.
居延海樹聞鶯同作
陳子昂
邊地無芳樹
鶯聲忽聽新
間關如有意
愁絕若懷人
明妃失漢寵
蔡女沒胡塵
坐聞應落淚
況忆故园春
Âm:
CƯ
DIÊN HẢI THỤ VĂN OANH ĐỒNG TÁC (Trần Tử Ngang)
Biên
địa vô phương thụ,
Oanh
thanh hốt thính tân.
Gian
quan như hữu ý,
Sầu
tuyệt nhược hoài nhân.
Minh
phi thất Hán sủng,
Sái
nữ một Hồ trần.
Tọa
văn ưng lạc lệ,
Huống
ức cố viên xuân.
Dịch:
VIẾT
KHI NGHE OANH HÓT TRONG VÒM CÂY TẠI CƯ DIÊN HẢI
Biên
thùy cây cối hiếm,
Oanh
hót ghẹo chinh nhân.
Quan
san chừng biết ý,
Nhớ
ai sầu xé gan.
Chiêu
Quân hờn Hán thất,
Bụi
Hồ nhốt Sái Văn.
Nghe
hoài rơi nước mắt,
Nhớ
lắm, cố hương xuân.
Miền
biên ải khí hậu khắc nghiệt ít cây cối. Tiếng Oanh
hót ngẫu nhiên khơi dậy trong lòng nhà thơ nỗi buồn
viễn xứ, kéo theo mối hoài niệm về những sự tình xa
xưa của Vương Chiêu Quân và Sái Văn Cơ. Hai mỹ nhân đời
Hán đã đem thân vào đất Hồ.
Vương
Chiêu Quân còn có tên Minh Quân hoặc Minh Phi, được tuyển
vào cung thời Hán Nguyên Đế. Thời đó những cô gái mới
vào cung không được diện kiến Hoàng Đế mà phải do
họa công vẽ chân dung trình lên, nhà vua sẽ căn cứ chân
dung để lựa chọn. Do đó các cung nữ tranh nhau hối lộ
họa công để có gương mặt đẹp. Vương Chiêu Quân vì
tự tin vào tài sắc của mình nên từ chối hối lộ. Kết
quả bức chân dung khó coi đã đẩy bà ra lãnh cung. Vài
năm sau, Thiền Vu Hung Nô Hô Hàn Nha đến Trung Nguyên triều
kiến Hoàng Đế và xin cầu hôn. Vương Chiêu Quân nghe tin
liền thỉnh nguyện xin đi và được Hán Nguyên Đế chấp
thuận. Khi ra mắt Hoàng Đế trước lúc lâm hành, Hán
Nguyên Đế sững sờ trước sắc đẹp của Vương Chiêu
Quân, có ý hối tiếc, nhưng lời hứa của đấng quân
vương khó nuốt, đành để Vương Chiêu Quân rời cung Tử
Đài, theo Hô Hàn Nha vào biên tái đất Hồ. Theo nói lại
thì sau đó, Hán Nguyên Đế tra xét ra thủ phạm bức chân
dung xấu xí của Vương Chiêu Quân và đã hạ lệnh chém
đầu họa công Mao Diên Thọ.
Sái
Văn Cơ là con gái Sái Ung, nhà văn học nổi danh cuối đời
Hán. Bà học rộng, giỏi văn chương và sành cả âm nhạc.
Khi chồng qua đời bà về ở với mẹ. Sau vì thiên hạ
loạn lạc, Sái Văn Cơ bị quân Hung Nô bắt đem vào đất
Hồ, bị ép làm vợ Tả Hiền Vương Hung Nô và bị giam
thân suốt 12 năm trên đất Hồ. Tới thời Tam Quốc, Tào
Tháo bạn thân của Sái Ung, biết được Sái Văn Cơ còn
sống. Ông đã phái sứ giả đem vàng lụa châu báo đến
Hung Nô, xin đón Sái Văn Cơ trở về Trung Nguyên.
Có
thể vùng biên tái Cư Diên Hải, nơi nhà thơ Trần Tử
Ngang hành quân qua, cũng là đất mà đời Hán, Vương
Chiêu Quân và Sái Văn Cơ từng đặt chân tới, nên mới
gợi cho nhà thơ những sự tình buồn thảm của một
thời.
4.
NGÃ RẼ ĐÔN HOÀNG TRÊN HÀNH LANG HÀ TÂY
Rời
Túc Châu, theo Con đường Tơ lụa, dọc Hà Tây Tẩu Lang
khoảng 400km thì tới Đôn Hoàng, một kho báu nghệ thuật
Phật giáo lừng danh Thế Giới.
Đôn
Hoàng là một kiến trúc dựa theo tự nhiên, rất toàn
hảo. Một Lục Châu nhỏ có màu xanh, giữa những bãi Qua
Bích và sa mạc, nằm về Tây Bộ của khu vực Hà Tây Tẩu
Lang, một yếu lộ giao thông đường bộ từ thời cổ
đại. Từ Tây Hán (206 TCN - CN 8) trở đi, Đôn Hoàng là
nơi Con đường Tơ lụa phải đi qua. Ra khỏi Đôn Hoàng,
Con đường Tơ lụa lại rẽ đôi hai tuyến Nam Bắc. Tuyến
Nam ra Dương Quan, men theo phía Nam bồn địa Tháp Lý Mộc
rồi đi về hướng Tây. Tuyến Bắc ra Ngọc Môn Quan, men
theo phía Bắc bồn địa Tháp Lý Mộc rồi cũng đi về
hướng Tây. Đời Đường lại hình thành thêm một lộ
tuyến mới phía Bắc, tức cũng ra Ngọc Môn Quan, nhưng đi
qua Y Ninh, men theo chân núi phía Bắc Thiên Sơn rồi đi về
hướng Tây. Hai tuyến Bắc Nam của Con đường Tơ lụa sẽ
hội tụ tại Sơ Lặc Trấn để cùng vượt núi Thông
Lãnh, tiếp tục theo hướng Tây để đến Ba Tư, Thổ Nhĩ
Kỳ, La Mã... Trong khi các thương đội từ nước ngoài
đến Trung Quốc, dù theo lộ tuyến Nam hay Bắc, cũng phải
hội tụ tại Đôn Hoàng, trước khi theo Hành Lang Hà Tây
đến Trung Nguyên. Do đó Đôn Hoàng là một thành phố rất
phồn thịnh và đông đúc dân cư.
“Con
đường Tơ lụa” vào những thời kỳ thông suốt nhất,
thì lộ trình vẫn còn nhiều gian nan nguy hiểm, do khí hậu
khắc nghiệt và những trận bảo cát thường trực trên
sa mạc mênh mông. Nơi đây đã vùi lấp không biết bao
nhiêu sinh mạng của những thương nhân, những nhà sư
hành hương và cả những đoàn thám hiểm thời cận đại.
Lữ khách trước khi ra Dương Quan hoặc Ngọc Môn Quan để
xuyên Tây Vực, đều dừng lại Đôn Hoàng, cầu Thần bái
Phật cho hành trình được bình an. Đây là lý do, mà từ
rất sớm, Đôn Hoàng đã trở thành trung tâm phát triển
cực thịnh của Phật Giáo.
Đương
thời có không ít Hòa Thượng từ Trung Nguyên tìm đến
Tây Vực, hoặc lưu cư truyền bá Phật Giáo, hoặc theo
con đường phía Nam Tây Vực, tìm đến quê hương đầu
nguồn Phật Giáo (Ấn Độ) nhằm trau dồi Phật Pháp và
thỉnh kinh điển. Cuộc hành hương của Pháp Sư đời
Đường Huyền Trang (theo Con đường Tơ lụa, đi qua nhiều
Tiểu Vương Quốc vùng Tây Vực) đến xứ Phật Ấn Độ,
cũng đã để lại nhiều giai thoại trứ danh. Người đời
sau đã căn cứ những sự tích này (có hư cấu thêm) sáng
tác bộ tiểu thuyết thần quái độc đáo “Tây Du Ký”.
Theo
ghi chép đọc được trên các văn bia đời Đường, năm
Thái Hòa thứ nhất Đông Tấn Phế Đế (CN 366), Cao Tăng
Lạc Tôn Hòa Thượng theo Con đường Tơ lụa đi về phía
Tây, khi đến vùng Tam Nguy Sơn (phụ cận Đôn Hoàng) thì
trời đã ngã chiều. Ông nhìn những tia nắng chiều le
lói trên đỉnh Tam Nguy Sơn, một vầng hào quang đập vào
mắt, lộ rõ kim thân Đức Phật. Nhà sư men theo sườn
núi tìm lên tới nơi, chứng kiến một thạch thất với
vô số Phật tượng và bích họa. Đó là kho báu nghệ
thuật Phật Giáo đầu tiên được phát hiện tại Đôn
Hoàng.
Tới
đời Đường, thạch động được phát hiện có trên
1.000 nơi. Do gió cát trường kỳ xâm thực và những dòng
lưu sa vùi lắp, từ đời Thập Lục Quốc tới đời
Nguyên, chỉ còn bảo tồn được 492 thạch thất. Trong đó
gồm 45.000m2 bích họa, khoảng 2.000 Phật tượng và một
số lớn mộc giản có ghi chép tư liệu. Đó là những
kho báu nghệ thuật Phật Giáo lừng danh nhất Thế Giới.
Khoảng
hơn 2.000 năm trước, vào thời Tây Hán, vì muốn bảo vệ
cửa ngõ giao thông trọng yếu Hà Tây Tẩu Lang, nhằm duy
trì sự thông suốt của Con đường Tơ lụa, người ta đã
thiết lập tại phía Tây Đôn Hoàng hai tòa quan ải là
Ngọc Môn Quan và Dương Quan. Đến thời Lục Triều, do
ngã An Tây (Cam Túc) thẳng tới Y Châu là con đường gần
và thuận tiện hơn, đa số lữ khách đều đi theo lối
này, nên Ngọc Môn Quan được di dời tới huyện Tấn
Xương (Qua Châu, tức vùng phụ cận Song Tháp Bảo, phía
Đông huyện An Tây tỉnh Cam Túc ngày nay). Thời Sơ Đường,
Ngọc Môn Quan được chính thức đặt tại đó.
Ngọc
Môn Quan và Dương Quan là hai tòa quan ải trọng yếu trên
Con đường Tơ lụa. Từ cổ đại, mọi giao thông Đông
Tây đều phải qua hai quan ải này. Do đó, hình ảnh Ngọc
Môn Quan và Dương Quan thường xuất hiện trong tác phẩm
các nhà thơ biên tái (đời Đường). Trong đó phải kể
trước tiên là bài thất tuyệt “Tòng Quân Hành” (bài
4) của Vương Xương Linh và bài thất tuyệt “Lương Châu
Từ” của Vương Chi Hoán.
從軍行
(其二)
王昌齡
青海長雲暗雪山
孤城遙望玉門關
黃沙百戰穿金甲
不破摟蘭终不還
Âm:
TÒNG
QUÂN HÀNH (Vương Xương Linh)
Thanh
Hải trường vân ám Tuyết San,
Cô
thành diêu vọng Ngọc Môn Quan.
Hoàng
Sa bách chiến xuyên kim giáp,
Bất
phá Lâu Lan chung bất hoàn.
Dịch:
BÀI
HÁT THEO QUÂN
Thanh
Hải mây đùn phủ Tuyết San,
Cô
thành trông vói Ngọc Môn Quan.
Hoàng
Sa trăm trận không rời giáp,
Không
về, nếu chưa diệt Lâu Lan.
Những
người yêu thích thơ Đường, gần như, đều biết bài
thơ này, nhưng vị trí nhà thơ đang đứng (đối với
Ngọc Môn Quan) cho tới cận đại, vẫn là một nghi án
tồn tại. Mắt của bài thơ hoàn toàn nằm ở câu thứ
hai: “Cô Thành” và “Diêu vọng”. Có phải Cô Thành
là Ngọc Môn Quan hay một thành trấn khác, và vị trí ở
đâu? Có phải từ một thành trấn khác vọng về Ngọc
Môn Quan hay từ Ngọc Môn Quan vọng ra ngoài? Câu hỏi này
đã làm thành những giải dịch bất đồng qua suốt hằng
ngàn năm.
Cho
tới bây giờ, người ta đã thống kê được 5 cách giải
thích: (1) Cô Thành là Ngọc Môn Quan. Tác giả từ đó,
vọng hướng Đông Nam nhìn về Kỳ Liên Sơn. (2) Cô Thành
là Ngọc Môn Quan. Tác giả từ một nơi nào đó, phía
Tây, vọng về Ngọc Môn Quan, đồng thời cũng nhìn thấy
Kỳ Liên Sơn. (3) Cô Thành cũng là Ngọc Môn Quan, nhưng
tác giả đứng từ phía Tây Bắc Kỳ Liên Sơn nhìn qua.
Câu thứ nhất tả cảnh sắc Kỳ Liên Sơn mà tác giả
nhìn thấy từ hướng Đông Nam. (4) Cô Thành ở trên đỉnh
hoặc dưới chân Kỳ Liên Sơn. Từ Cô Thành, hướng Tây
Bắc, nhìn về Ngọc Môn Quan. (5) Cô Thành nằm ở phía
Tây Bắc, rất xa, nhìn về Ngọc Môn Quan. Nhiều người
cho rằng, cách giải thích thứ (4) tương tự cách thứ
(5) và cách này thuyết phục hơn cả.
Vị
trí Ngọc Môn Quan đời Đường (chưa chuẩn xác) là một
vùng sa mạc đồi cát mênh mông, nằm ở phụ cận Song
Tháp Bảo (nay là phía Tây huyện An Tây tỉnh Cam Túc).
Phía Đông Nam Ngọc Môn Quan không ngoài 100km là Kỳ Liên
Sơn. Phía Đông Nam Kỳ Liên Sơn khoảng 600km là Hồ Thanh
Hải. Theo nhiều nhà khảo chứng sau này, nhà thơ Vương
Xương Linh lúc đó khoảng 26 – 27 tuổi, đã từng theo
quân đến Hà Tây, Lũng Hữu, Thanh Hải và ra Ngọc Môn
Quan. Ông từ nội địa ra Ngọc Môn Quan, dọc Hà Tây Tẩu
Lang không biết bao nhiêu ngày tháng. Một ngày mây đen che
khắp Kỳ Liên Sơn, họ Vương từ chân núi phía Tây Bắc
nhìn về Ngọc Môn Quan mờ mờ ảo ảo, lòng chợt thấy
hưng phấn mới viết câu “Hoàng Sa bách chiến xuyên kim
giáp, bất phá Lâu Lan chung bất hoàn” (Hoàng Sa trăm trận
không rời giáp, không về, nếu chưa diệt Lâu Lan). Bài
thơ “Tòng Quân Hành” không chỉ nói lên sĩ khí của
nhà thơ, mà còn biểu đạt lòng dũng cảm của những sĩ
binh thời Thịnh Đường.
Đầu
mùa Xuân năm Thiên Bảo thứ 9 hoặc thứ 10 Đường Huyền
Tông, nhà thơ Sầm Tham lần thứ nhất đến Tây Vực nhậm
chức tại An Tây Đô Hộ Phủ, khi đi qua Phong Hỏa đài
Mục Túc (gần Ngọc Môn Quan), có viết bài thất tuyệt
“Đề Mục Túc Phong ký gia nhân”, biểu lộ lòng nhớ
quê của người biên tái:
題苜蓿
烽寄家人 岑参
苜蓿烽邊逢立春
胡蘆河上淚沾巾
閨中只是空相忆
不見沙場愁殺人
Âm:
ĐỀ
MỤC TÚC PHONG KÝ GIA NHÂN (Sầm Tham)
Mục
Túc Phong biên phùng lập xuân,
Hồ
Lô hà thượng lệ triêm cân.
Khuê
trung chỉ thị không tương ức,
Bất
kiến sa trường sầu sát nhân.
Dịch:
THƯ
NHÀ VIẾT TỪ PHONG HỎA ĐÀI MỤC TÚC
Xuân
chạm Hỏa Đài Mục Túc Phong,
Qua
bến Hồ Lô lệ ướt ròng.
Phòng
khuê da diết tràn mong nhớ,
Đâu
biết sa trường trĩu nhớ mong.
Mục
Túc Phong là Phong Hỏa đài cực Bắc của 5 Phong Hỏa đài
phía Tây Bắc ngoài Ngọc Môn Quan. Sông Hồ Lô (nay là
Quật Long Hà) phát nguyên từ đất Hồ Lô Câu (phía Đông
Song Tháp Bảo, thuộc huyện An Tây, Cam Túc), chảy vào Sơ
Lặc hà. Theo những ghi chép của Tuệ Lập, đệ tử Pháp
Sư Huyền Trang: “Sông Hồ Lô đời Đường dưới đáy
rộng, trên mặt hẹp, sóng vỗ rất gấp, độ sâu không
thể dò. Từ quan ngoại muốn vào Ngọc Môn Quan phải qua
con sông này”.
Ý
thơ, Sầm Tham khi qua Sông Hồ Lô, tình quê trỗi dậy nước
mắt đẩm khăn. Vợ con quê nhà giờ này chắc đang nhớ
thương ta. Đâu biết tình nhà của ta còn trĩu nặng bội
phần.
Bài
thất tuyệt “Lương Châu Từ” của Vương Chi Hoán cũng
là một kiệt tác về Ngọc Môn Quan.
凉州詞
王之涣
黄河遠上白雲間
一片孤城萬仞山
姜笛何須怨楊柳
春風不度玉門關
Âm:
LƯƠNG
CHÂU TỪ (Vương Chi Hoán)
Hoàng
Hà viễn thướng bạch vân gian,
Nhất
phiến Cô Thành vạn nhận san.
Khương
địch hà tu oán “Dương Liễu”,
Xuân
phong bất độ Ngọc Môn Quan.
Dịch:
BÀI
HÁT LƯƠNG CHÂU
Giữa
vầng mây trắng Hoàng Hà,
Cô
Thành đứng lặng non xa chất chồng.
Gió
Xuân khó thấu Ngọc Môn,
Trỗi
chi sáo Rợ khúc hờn “”Chiết Dương”
Bài
thơ còn có tựa “Ngọc Môn Quan thính xuy địch”. “Lương
Châu Từ” là “Lương châu xướng ca từ”. Hoàng Hà
(tưởng chừng) chảy đến từ những vầng mây trắng
(thời Tây Hán, Hán Vũ Đế mệnh cho Trương Khiên đi khảo
sát đầu nguồn Hoàng Hà. Sau chuyến đi nhiều ngày, họ
Trương trở về trình lên Hoàng Đế một tấu chương có
nội dung: Sông Hoàng Hà phát nguyên từ dãy Ngân Hà trên
Thượng giới. Ông ta nói đã đích thân tìm tới bờ Ngân
Hà và được Tiên Nữ tặng cho viên đá. Do đó người
Trung Quốc (thời cổ đại) tin là Hoàng Hà phát nguyên từ
trời).
Từ
bờ Hoàng Hà nhìn về hướng Tây, giữa sa mạc mênh mông,
chỉ có Ngọc Môn Quan và tòa Cô Thành trơ trọi. Xa hơn
nữa là trùng trùng những ngọn núi cao ngất. Tiếng sáo
Rợ Khương, không biết từ đâu, trỗi lên khúc nhạc bi
thương “Chiết Dương Liễu”, như oán trách ngọn gió
Xuân, từ cổ chí kim, chưa hề thổi qua Ngọc Môn Quan.
Khí hậu bên ngoài Ngọc Môn Quan rất khô kiệt, gần như
không có nguồn nước sinh sống, thảo mộc hiếm hoi. Có
lẽ đó là lý do mà Vương Chi Hoán cho rằng, gió Xuân
chưa hề đi qua Ngọc Môn Quan.
Cùng
thời với Vương Chi Hoán (cùng phái Biên Tái), nhà thơ
Cao Thích cũng có bài thất tuyệt “Tái thượng thính xuy
địch”, mô tả cảnh tượng bên ngoài Ngọc Môn Quan.
塞上聽吹笛
高適
雪凈胡天牧馬還
月明姜笛戍樓間
借問梅花何處落
風吹一夜滿關山
Âm:
TÁI
THƯỢNG THÍNH XUY ĐỊCH (Cao Thích)
Tuyết
tịnh Hồ thiên mục mã hoàn,
Nguyệt
minh Khương địch thú lâu gian.
Tá
Vấn Mai hoa hà xứ lạc,
Phong
xuy nhất dạ mãn quan san.
Dịch:
TRÊN
QUAN ẢI NGHE TIẾNG SÁO
Ngựa
về tuyết lặng trời Hồ,
Sáo
Khương réo gọi trăng vô chiến hào.
“Mai
Hoa Khúc” dạt về đâu,
Khắp
quan ải một đêm thâu gió lùa.
Buổi
chiều tuyết tan trên biên ải, bò dê từ thảo nguyên trở
về. Trăng đã lên, những trận gió quét tràn. Tiếng sáo
của người Khương từ lầu canh chiến hào vọng xuống
khúc “Mai Hoa Lạc”. Câu “Tá Vấn Mai hoa hà xứ lạc”
ý nói khúc “Mai Hoa lạc” không biết sẽ bị gió dạt
về đâu? Chứ không phải hoa Mai rụng trên biên ải sẽ
bị gió cuốn về đâu?
Bài
thứ 5 trong đề tài “Tái Hạ Khúc lục thủ” của Lý
Bạch cũng có đề cập một số cố sự thời Tây Hán,
liên quan độc đáo tới Ngọc Môn Quan.
塞下曲六首
(其五)
李白
塞虜乘秋下
天兵出漢家
將軍分虎竹
戰士卧龍沙
邊月随弓影
胡霜拂劍花
玉關殊未入
少婦莫長嗟
Âm:
TÁI
HẠ KHÚC LỤC THỦ (Bài 5) (Lý Bạch)
Tái
lỗ thừa Thu há,
Thiên
binh xuất Hán gia.
Tướng
quân phân hổ trúc,
Chiến
sĩ ngọa Long Sa.
Biên
nguyệt tùy cung ảnh,
Hồ
sương phất kiếm hoa.
Ngọc
Quan thù vị nhập,
Thiếu
phụ mạc trường ta.
Dịch:
BÀI
HÁT DƯỚI ẢI (Bài 5)
Giặc
ải nhân Thu xuống,
Binh
Trời đất Hán ra.
Tướng
quân chia Hổ trúc,
Chiến
sĩ ngủ Long Sa.
Trăng
ải vành cung tỏ,
Sương
Hồ ánh kiếm pha.
Ngọc
Quan chưa trở lại,
Thiếu
phụ chớ kêu ca!
Lê
Nguyễn Lưu dịch
Giặc
từ ngoài ải lợi dụng mùa Thu ngựa béo, đem quân xâm
nhập Trung Nguyên. Hán triều phái binh đi đánh dẹp. Tướng
quân chia binh phù, quân sĩ tiến vào sa mạc (Long Đôi tức
sa mạc Bạch Long Đôi, nay thuộc cảnh nội Tân Cương).
Địch tình khẩn cấp, sĩ binh ngày đêm tiến quân không
ngừng nghỉ. Ánh trăng biên cương soi bóng trên cung tên,
sương quan ải rơi trên đao kiếm như những đóa hoa.
Chiến tranh chưa kết thúc, binh sĩ lâu ngày chưa được
trở lại Ngọc Môn Quan. Mong thiếu phụ nơi khuê phòng
chớ than vãn.
Trong
bài thơ có từ “Hổ Trúc”, tức Binh Phù, một bằng
chứng điều binh thời cổ đại. Đó là một tấm đồng
hoặc tre được chạm hình Hổ rồi cắt thành hai mảnh.
Nửa phải giữ lại triều đình, còn nửa trái giao cho
tướng soái cầm binh. Khi nào cần thay đổi tướng cầm
binh, người thay thế sẽ cầm nửa mảnh còn giữ ở
triều đình đến quân doanh. Tướng soái tại quân doanh
sẽ ráp hai mảnh với nhau, nếu ăn khớp mới trao binh
quyền.
Ở
đây Lý Bạch có sử dụng một điển cố đời Hán. Năm
Thái Sơ thứ nhất (104 TCN), Hán Vũ Đế mệnh tướng Lý
Quảng Lợi đem mấy vạn quân đến Tây Vực thu thập
ngựa quí (danh mã). Bị vua Đại Uyển từ chối dẫn tới
đánh nhau. Do chiến tranh bất lợi, quân Hán bị cầm chân
ở Tây Vực suốt nửa năm, số thương vong khá lớn. Lý
Quảng Lợi dâng thư lên Hoàng Đế xin bãi binh. Hán Vũ Đế
nổi giận phái sứ giả đến “Ngọc Môn” truyền lệnh:
“Quân sĩ dám trở vào ải, chém”. Lý Quảng Lợi nghe
sợ, tạm thời trú quân tại Đôn Hoàng. Hán Vũ Đế tăng
viện cho 6 vạn binh, Lý Quảng Lợi tấn công Đại Uyển
lần thứ 2, giết vua Đại Uyển thu được mấy chục
danh mã gọi “Hãn huyết Mã” (Ngựa có mồ hôi đỏ như
máu). Quân Hán kéo về Ngọc Môn Quan chỉ còn hơn 1 vạn.
Sự
kiện Hán Vũ Đế phái sứ giả đến “Ngọc Môn”
truyền thánh chỉ, nhiều người cho đó là Ngọc Môn Quan
(đương nhiên là Hán Ngọc Môn Quan). Nhưng Hán Ngọc Môn
Quan nằm phía Tây Đôn Hoàng. Lịch sử ghi chép Lý Quảng
Lợi tạm trú quân ở Đôn Hoàng có nghĩa là ông đã đem
quân vào Ngọc Môn Quan, rồi mới xin bãi binh. Xem lại bản
đồ địa lý của “Con đường Tơ lụa” thì đây là
huyện “Ngọc Môn” đời Hán, nằm phía Đông Đôn Hoàng
(nay là Xích Kim Bảo, phía Tây Bắc thành phố Ngọc Môn
tỉnh Cam Túc). Khi Hán Vũ Đế phái sứ giả đến huyện
Ngọc Môn truyền thánh chỉ tức ông cũng đã biết Lý
Quảng Lợi rút quân vào Ngọc Môn Quan rồi. Chẳng qua Hán
Vũ Đế chỉ phủ đầu cho tướng sĩ khỏi để tiêu trầm
ý chí chiến đấu. Bằng chứng ông không những không
thực hiện thánh chỉ mà, còn tăng cho 6 vạn quân viện.
Hơn nữa, các vương triều phong kiến trong lịch sử Trung
Quốc cũng đã có lệ: tướng soái ngoài quan ải đôi khi
cũng không cần theo mệnh vua.
“Dương
Quan” cũng là một quan ải thường xuất hiện trong thơ
của các thi nhân phái “Biên Tái” đời Đường, nhưng
xuất sắc nhất là Vương Duy. Ngoài bài thất tuyệt “Tống
Nguyên Nhị sứ An Tây”, ông còn bài ngũ luật “Tống
Lưu Tư Trực phó An Tây” mô tả sâu sắc và độc đáo
nhiều hình ảnh và sự kiện liên quan tới cả trong lẫn
ngoài Dương Quan.
送劉司直赴安西
王維
絕域陽關道
胡烟與塞塵
三春時有雁
萬里少行人
苜蓿随天馬
蒲萄逐漢臣
當令外國惧
不敢覓和亲
Âm:
TỐNG
LƯU TƯ TRỰC PHÓ AN TÂY (Vương Duy)
Tuyệt
vực Dương Quan đạo,
Hồ
yên dữ tái trần.
Tam
Xuân thời hữu Nhạn,
Vạn
Lý thiếu hành nhân.
Mục
Túc tùy Thiên Mã,
Bồ
Đào trục Hán thần.
Đương
linh ngoại quốc cụ,
Bất
cảm mịch hòa thân.
Dịch:
TIỄN
QUAN TƯ TRỰC HỌ LƯU ĐI AN TÂY
Đường
Dương Quan cuối vực,
Khói
Hồ bụi quan san.
Trời
Xuân Nhạn qua ải,
Vạn
dặm vắng hành nhân.
Mục
Túc theo chân ngựa,
Bồ
Đào tiễn sứ thần.
Ngoại
tộc đều khiếp sợ,
Hết
nuôi mộng cầu thân.
Tư
Trực là một chức quan hàng lục phẩm trở lên. An Tây
chỉ An Tây Đô Hộ phủ đời Đường, mạc phủ tại Tây
Châu (nay là Thổ Lỗ Phiên, Tân Cương), về sau di dời
đến Khưu Từ, (nay là Khổ Xa, Tân Cương). Hành trình sau
khi ra Dương Quan là con đường thăm thẳm không thấy chân
trời. Đây đó rải rác một vài làn khói bếp của dân
Hồ và cát bụi mù trời sa mạc. Mùa Xuân chỉ có những
đàn Nhạn bay qua ải, sa mạc mênh mông hiếm khi gặp lữ
hành. Theo chân những đoàn danh mã đưa vào Trung Nguyên
thời Hán Vũ Đế (mượn Hán chỉ Đường) là cỏ Mục
Túc, đem theo từ Tây Vực làm thức ăn cho ngựa. Những
sứ giả khi rời Tây Vực trở về Trường An đều mang
theo Bồ Đào (trái Nho), một đặc sản rất hiếm ở
Trường An. Uy quyền của Hán triều theo chân sứ giả đến
Tây Vực khiến các tiểu vương khiếp sợ, không dám nghĩ
đến chuyện cầu thân. Bài thơ có từ “Hòa thân”, là
mục đích chính trị của các vương triều phong kiến Hán
Đường. Tức chọn con gái trong hoàng tộc gã cho thủ
lĩnh các dân tộc ít người vùng quan ngoại, nhằm tạo
quan hệ để bành trướng thế lực về phía Tây.
Trong
thơ “Biên Tái” thường xuất hiện hình ảnh Dương
Quan, Hán Ngọc Môn Quan và Đường Ngọc Môn Quan. Nhưng
những di tích đó nằm chuẩn xác ở địa phương nào
ngày nay? Vấn đề còn nằm trong những cuộc khảo sát và
nghiên cứu không ngừng.
Di
tích Ngọc Môn Quan đời Hán, theo một số tư liệu có
được qua những kết quả nghiên cứu từ đầu thế kỷ
20: Tại một bãi Qua Bích (bãi đá sỏi nổi lên giữa sa
mạc) cách phía Tây Bắc Đôn Hoàng khoảng 80km, có một
tòa thành nhỏ gọi “Tiểu Phương Bàn Thành”. Đó là
một tòa thành hình vuông xây bằng đất, tường thành
cũng được đắp bằng loại đất vàng. Thành có chiều
dài Đông Tây 24m, Nam Bắc rộng 26m. Tường thành ngày nay
còn lại cao khoảng 10m. Người ta thường phát hiện trong
thành này số lớn mộc giản đời Hán, trong đó có một
giản đọc thấy dòng chữ “Ngọc Môn Đô Đốc”. Vì
vậy mới xác định đây là di tích Ngọc Môn Quan đời
Hán.
Ngọc
Môn Quan đời Đường tới nay vẫn chưa phát hiện được
di tích chuẩn xác. Có người cho rằng, tại chính Nam Song
Tháp Bảo (nay thuộc huyện An Tây, Cam Túc), còn phế tích
của một tòa cổ thành gọi “Khổ Dục Thành”, và cho
đó là di tích của Đường Ngọc Môn Quan. Nhưng kết quả
những nghiên cứu sau này đã xác định, đó là thành Tấn
Xương, châu trị của Qua Châu đời Đường. Không phải
di tích Đường Ngọc Môn Quan. Thành này vốn có từ rất
xưa, nằm giữa vùng Dược Trấn Dương nên cũng gọi Trấn
Dương Thành. Ngoài ra cũng có người cho rằng, di tích
Đường Ngọc Môn Quan tại trung tâm Thủy Khố của Song
Tháp Bảo (phía Đông huyện An Tây, Cam Túc), nhưng chưa
được nghiên cứu xác minh.
Cách
Tây Nam Đôn Hoàng 70 km, có sa mạc “Cổ Đổng Than”.
Nơi đây trường kỳ xưa nay, cứ mỗi cơn gió lớn đi
qua, từ lớp cát đá lộ ra nhiều vật phẩm thời cổ
đại như tiền đồng, đầu tên và những mảnh vỡ gươm
đao... Nhiều cuộc nghiên cứu xác định đây là di tích
Dương Quan.
Năm
1972, qua cuộc khai quật của đội công tác Văn Vật Tửu
Tuyền (Cam Túc), đã xác định đúng di tích của Dương
Quan. Vị trí không xa phía Tây sa mạc “Cổ Đổng Than”.
Hiện còn lưu lại nền tường và nền phòng thất, tiếp
giáp với di tích những mẫu trường thành giữa Dương
Quan và Ngọc Môn Quan. Do những thế kỷ về sau khí hậu
trở nên khô hạn, những nguồn nước cạn kiệt, dân cư
lưu tán. Dương Quan từ đó cũng bi gió cát sa mạc tàn
phá chôn vùi.
Từ
ngã rẽ Đôn Hoàng, lữ khách nếu muốn theo lộ tuyến
Nam của “Con đường Tơ lụa” thì ra Dương Quan. Nếu
muốn theo lộ tuyến Bắc thì ra Ngọc Môn Quan.
5.
KHU VỰC HÀ HOÀNG TRÊN HÀNH LANG HÀ TÂY
“Hà
Hoàng” chỉ Hoàng Hà và Hoàng Thủy. Hoàng Thủy phát
nguyên từ hồ Thanh Hải, chảy về hướng Đông, đến
vùng phụ cận Lan Châu (Cam Túc) thì nhập vào Hoàng Hà,
gọi chung là Hà Hoàng. Từ đời Đường, lưu vực giữa
Hoàng Hà và Hoàng Thủy tức Hà Tây (nay là Hà Tây Tẩu
Lang, Cam Túc) đến Lũng Hữu (từ Lũng Sơn đổ về Tây)
là khu vực Hà Hoàng.
Từ
Công Nguyên 663, sau khi Thồ Cốc Hồn bị Thổ Phồn diệt
vong, lực lượng Thổ Phồn ngày càng lớn mạnh, đe dọa
vùng Hà Tây và Lũng Hữu. Đường Triều thiết lập hai
Tiết Độ Sứ Hà Tây và Lũng Hữu với quân số hùng
hậu, phòng ngự Thổ Phồn nhập xâm.
Năm
Thiên Bảo thứ 14 Đường Huyền Tông (CN 755), xảy ra loạn
An Sử. Triều đình điều hết quân tinh nhuệ của Hà Tây
Lũng Hữu về nội địa dẹp loạn, biên phòng gần như
bỏ trống. Thổ Phồn thừa cơ đem quân công chiếm các
châu huyện thuộc 2 trấn, sau cùng chiếm toàn bộ Hà Tây
và Lũng Hữu (tức khu vực Hà Hoàng). “Con đường Tơ
lụa” từ đó gián đoạn. Quan hệ giữa Đường triều
và Tây Vực bị cắt đứt.
Tháng
4 năm Quang Tự thứ 25 đời Thanh, trong một thạch động
nhỏ tại Đôn Hoàng, người ta phát hiện một kho báu văn
hóa tầm cỡ Thế Giới. Trong đó có 2.500 quyển sách chép
tay từ thời Ngũ Đại trở về trước, bao gồm Phật
kinh, thi và từ do người thời Ngũ Đại sao chép, cùng
một số tiểu thuyết và biền văn.
Trong
những văn vật phát hiện tại thạch thất Đôn Hoàng lần
này, có không ít thơ và từ đời Đường bị thất lạc.
Đặc biệt hơn nữa là phần cuối quyển thượng của
“Đường Nhân thi tập” (cũng sách chép tay trong số văn
vật này) ghi chép: tại Cam Châu (nay là Trương Dịch, Cam
Túc) và Sa Châu (nay là Đôn Hoàng, Cam Túc) có hai nhà thơ
Đường bị Thổ Phồn cầm tù và lưu đày. Tác phẩm của
họ chưa từng có trong “Toàn Đường thi”
Khi
Thổ Phồn xâm nhập tấn công khu vực Hà Hoàng, quân dân
Cam Châu và Sa Châu đã kiên trì chiến đấu gian khổ bảo
vệ thành được 11 năm. Cuối cùng vào năm Kiến Trung thứ
2 Đường Đức Tông (CN 781), cả hai châu trước sau đều
bị Thổ Phồn chiếm lĩnh.
Cam
Châu đương thời chiến đấu rất dũng cảm, giữ thành
được hơn 10 năm mới bị phá. Trong khi tình huống Sa
Châu có khác hơn. Khi mới bị bao vây, thứ sử Châu Đỉnh
chỉ huy dân quân cố thủ được 1 năm. Sau vì viện binh
không đến, ông ra lệnh thiêu hủy thành trì và mở vây
tháo chạy. Bộ hạ của ông phản đối kịch liệt. Không
lâu sau, các bộ hạ giết Châu Đỉnh rồi tự điều động
quân dân tử thủ Sa Châu được thêm 10 năm. Tới khi
lương thực và binh khí kiệt quệ không còn cố thủ
được, đành phải đưa điều kiện đầu hàng với Thổ
Phồn: Không được áp giải quan binh và dân chúng đi khỏi
Sa Châu. Thổ Phồn đồng ý, nhưng khi Sa Châu mở cửa
thành thì họ nuốt lời, đem toàn bộ quan binh Sa Châu đày
đi những nơi xa. Đương nhiên, thân phận Cam Châu cũng
không ngoại lệ.
Phần
cuối quyển thượng của “Đường Nhân thi tập” (sách
chép tay nói trên) có sao chép 72 bài thơ của 2 tác giả
đời Đường bị quân Thổ Phồn cầm tù và áp giải dọc
“Con đường Tơ lụa”. Đó là những bài thơ hai nhà
sáng tác trên đường lưu đày. Một nhà bị áp giải từ
Sa Châu mà “Đường Nhân thi tập” không ghi tên họ nên
chỉ tạm gọi “Dật danh thị” (giấu tên họ). Còn một
nhà bị áp giải từ Cam Châu tên Mã Vân Kỳ.
Theo
những nghiên cứu mới nhất, Dật Danh Thị là người Ô
Lạp Đặc Tiền Kỳ (nay là khu Nội Mông Cổ tự trị).
Vì quê hương ông cũng bị Thổ Phồn chiếm lĩnh nên ông
rời quê phiêu bạt nay đây mai đó. Về sau Dật Danh Thị
đến Sa Châu (Đôn Hoàng) nương nhờ người thân. Ở đây
Dật Danh Thị thường giao du với các nhà văn học và
quan viên sở tại. khi Thổ Phồn bao vây tấn công Sa Châu,
ông có tham gia bảo vệ thành trì. Thứ Sử Châu Đỉnh
quyết định đốt thành thoát vây, ông đứng về phía
phản đối. Mùa Đông năm Kiến Trung thứ 2 Đường Đức
Tông, thành Sa Châu bị chiếm. Dật Danh Thị (và cả quan
binh sở tại) bị bắt áp giải khỏi Đôn Hoàng. Ông chịu
đày ải gian khổ qua nhiều nơi dọc Con đường Tơ lụa
suốt gần 2 năm. Cuối cùng bị giam giữ tại thành Lâm
Phiên (nay là vùng phụ cận Đa Ba Trấn, phía Tây thành
phố Tây Ninh, tỉnh Thanh Hải).
Mã
Vân Kỳ khả năng là người Quan Trung (nay là Trung bộ
tỉnh Thiểm Tây). Vào khoảng năm Đại Lịch thứ 6 Đường
Đại Tông (CN 771) ông đến nhậm chức tại Mạc Phủ
Trưởng quan chủ quản Cam Châu. Khi Thổ Phồn công hãm
Cam Châu, họ Mã cũng đã tham gia chiến đấu. Năm Kiến
Trung thứ 2 thành Cam Châu vỡ, Mã Vân Kỳ bị bắt áp
giải khỏi Cam Châu. Mùa Hạ năm Kiến Trung thứ 3 ông
cũng bị đưa tới giam tại thành Lâm Phiên.
Lộ
trình 2 nhà thơ bị áp giải, qua bản đồ, có thể thấy:
Dật
Danh Thị rời Sa Châu (Đôn Hoàng) đi qua Hung Môn (nay là
Đương Kim Sơn Khẩu), Mặc Ly Hải (nay là Hồ Tô Can), Tây
Đồng (nay là Đại Đài Sán), Hồ Thanh Hải, vượt Xích
Lĩnh (nay là Nhật Nguyệt Sơn). Cuối cùng bị giam tại
thành Lâm Phiên. Thời gian hành trình là 1 năm 8 tháng.
Mã
Vân Kỳ rời Cam Châu vượt qua Đạm Hà, Kim Nga Bác, Kim
Kỳ Liên, Kim Cương Sát và rồi cũng bị giam tại thành
Lâm Phiên.
Lộ
trình lưu đày của 2 nhà thơ cho tới khi bị giam tại Lâm
Phiên, qua mỗi nơi họ đều viết những bài thơ mô tả
xuất sắc từng sự việc. Hoặc nói về thân phận bi
lương thống khổ của kiếp tù. Hoặc nói về những tình
cảnh tự thân đã trải qua. Hoặc vẽ lại khung cảnh
chiến tranh đời Đường, từ Đôn Hoàng đến Hồ Thanh
Hải. Hoặc vị trí địa danh và nguyên nhân của mỗi sự
tình. Hoặc mô tả cảnh sắc núi sông cùng sự biến hóa
bất thường của khí hậu... Tất cả đều là những dấu
ấn sâu sắc đáng ghi trong lịch sử Đường triều.
Mùa
Đông năm Kiến Trung thứ 2 Đường Đức Tông (CN 781), Dật
Danh Thị bị áp giải khỏi Đôn Hoàng. Từ một vùng phụ
cận Dương Quan đi về phía Tây, vượt qua Đương Kim Sơn
Khẩu, đến bờ Mặc Ly Hải, ông đã viết một bài ngũ
luật “Chí Mặc Ly Hải Phụng hoài Đôn Hoàng tri kỷ”
diễn đạt mối xúc cảm trước cảnh tình thân chứng và
nhớ về đất cũ Đôn Hoàng.
至墨离海奉懷敦煌知己
佚名氏
朝行傍海涯
暮宿幕爲家
千山空皓雪
萬里盡黄沙
戎俗途將近
知音道已賒
回瞻雲岭外
揮涕獨咨嗟
Âm:
CHÍ
MẶC LY HẢI PHỤNG HOÀNG HOÀI ĐÔN HOÀNG TRI KỶ (Dật Danh
Thị)
Triêu
hành bàng Hải nha,
Mộ
túc Mạc vi gia.
Thiên
sơn không hạo tuyết,
Vạn
lý tận hoàng sa.
Nhung
tục đồ tương cận,
Tri
âm đạo dĩ xa.
Hồi
chiêm vân lĩnh ngoại,
Huy
thế độc tư sa.
Dịch:
ĐẾN
MẶC LY HẢI CHẠNH NHỚ BẠN BÈ ĐÔN HOÀNG
Sớm
bên bờ Ly Hải,
Chiều
mái cỏ thay nhà.
Núi
núi trùm tuyết trắng,
Cát
vàng muôn dặm xa.
Bước
kề phong tục Rợ,
Bằng
hữu càng chia xa.
Ngoảnh
nhìn mây núi cũ,
Lệ
ướt chỉ riêng ta.
Buổi
sớm, từ bờ Mặc Ly Hải đi về phía Tây, qua những miền
hoang vu không một làn khói bếp. Chiều tối kết cỏ Bồng
làm mái qua đêm. Bốn phía toàn những tòa núi tuyết
trắng phau trùng điệp. Cát vàng trải dài trên sa mạc
không bờ. Mỗi bước chân càng vào sâu trong phong tục Rợ
(Thổ Phồn), bằng hữu tri âm theo đó càng biền biệt.
Quay nhìn phía Bắc (đất cũ Đôn Hoàng) mây đen đùn khắp
núi. Còn một mình ta, những dòng nước mắt tha hồ rơi.
Dật
Danh Thị bị giam giữ tại Mặc Ly Hải không bao lâu, dân
du mục Thổ Phồn cũng tụ về đây căng lều trú Đông
cho qua thời kỳ giá rét. Mùa Hạ năm Kiến Trung thứ 3
(CN 782), ông từ Mặc Ly Hải tiếp tục bị áp giải về
phía Tây. Nguyên vì quân Thổ Phồn không biết xử trí tù
nhân Đường triều ra sao, việc này phải do Tán Phổ (vua
Thổ Phồn) đích thân quyết định. Họ cứ tưởng Tán
Phổ lúc đó đang ở Thanh Hải, không ngờ ông đang ở La
Ta (nay là Lasha, kinh đô Tây Tạng). Họ phải tạm giam tù
nhân tại một dịch trạm gần khu Cách Nhĩ Mộc để chờ
chỉ thị. Thời cổ đại giao thông rất khó khăn nên
thời gian chờ đợi, dù là tạm, cũng phải trên dưới
một năm. Tại dịch trạm này, vào mùa Đông năm Kiến
Trung thứ 3, Dật Danh Thị có viết bài ngũ luật “Đông
nhật dã vọng”, mô tả cảnh Đông sầu khổ tại bồn
địa Cách Nhĩ Mộc.
冬日野望
佚名氏
出户過河梁
登高試望鄉
雲随愁處斷
川逐思弥長
晚風吹叢草
遙山落夕陽
徘徊噎不語
空使淚沾裳
Âm:
ĐÔNG
NHẬT DÃ VỌNG (Dật Danh Thị)
Xuất
hộ quá hà lương,
Đăng
cao thí vọng hương.
Vân
tùy sầu xứ đoạn,
Xuyên
trục tứ di trường.
Vãn
phong xuy ti thảo,
Diêu
sơn lạc tịch dương.
Bồi
hồi ế bất ngữ,
Không
sử lệ triêm thường.
Dịch:
NGÓNG
VỀ, TỪ MỘT NGÀY MÙA ĐÔNG
Qua
sông lìa đất cũ,
Lên
cao ngóng quê nhà.
Cảm
sầu mây đứt nối,
Sông
chuyển nhớ thương qua.
Gió
chiều lùa nội cỏ,
Non
Tây khuất bóng tà.
Bồi
hồi không cất tiếng,
Khăn
áo đẩm lệ sa.
“Xuất
hộ”, ý nói rời Đôn Hoàng ra Hung Môn (Đương Kim Sơn
Khẩu) trên đường bị áp giải về phía Tây. Tác giả
từ chỗ cao nhìn về đất cũ Đôn Hoàng, chỉ thấy những
vầng mây đứt nối như chia xẻ lòng người. Dòng sông
lặng lẽ trôi, kéo dài thêm nỗi buồn viễn xứ. Gió
chiều quét lạnh qua đồng cỏ. Lòng khách bồi hồi nghẹn
ngào không cất tiếng, chỉ thấy nước mắt đẩm áo
khăn.
Mùa
Thu năm Kiến Trung thứ 4 (CN 783), Dật Danh Thị bị áp
giải tới bờ sông Hắc Mã Hà bên Hồ Thanh Hải. Nhà thơ
đã cách Đôn Hoàng một cự ly rất xa. Không cầm được
cảm xúc, ông đã viết bài ngũ luật “Thanh Hải vọng
Đôn Hoàng chi tác”.
青海望敦煌之作
佚名氏
西北指流沙
東南路轉遐
独悲留海畔
歸望阻天涯
九夏呈芳草
三時有雪花
未能刷羽去
空此羨寒鸦
Âm:
THANH
HẢI VỌNG ĐÔN HOÀNG CHI TÁC
(Dật
Danh Thị)
Tây
Bắc chỉ lưu sa,
Đông
Nam lộ chuyển hà.
Độc
bi lưu hải bạn,
Qui
vọng trở thiên nha.
Cửu
Hạ trình phương thảo,
Tam
thời hữu tuyết hoa.
Vị
năng loát vũ khứ,
Không
thử tiễn hàn Nha.
Dịch:
VIẾT
TỪ THANH HẢI NGÓNG VỀ ĐÔN HOÀNG
Cát
chảy tràn Tây Bắc,
Đông
Nam đường càng xa.
Sầu
bên bờ Thanh Hải,
Phương
về trời bao la.
Cỏ
xanh suốt mùa Hạ,
Vào
Xuân tuyết trổ hoa.
Hận
mình chưa chắp cánh,
Làm
kiếp Quạ bay xa.
Từ
Tây Bắc nhìn về Đôn Hoàng qua những dòng lưu sa (cát
chảy) cuồn cuộn trên sa mạc. Đường càng đi càng xa
đất cũ Đông Nam (Đôn Hoàng). Ta một mình sầu tư bên
bờ Thanh Hải, tưởng chừng không có ngày về. Cỏ xanh
trải dài thảo nguyên từ Hạ sang Đông. Vào Xuân cũng
chỉ toàn hoa tuyết bay đầy trời. Ta hận vì không chắp
được đôi cánh, thà như kiếp quạ để tha hồ xa chạy
cao bay.
Cuối
mùa Thu năm Hưng Nguyên thứ nhất Đường Đức Tông (CN
784), nhà thơ Mã Vân Kỳ cũng bị áp giải tới Lâm Phiên.
Rất có thể, hai nhà thơ đã có một khoảng thời gian
gặp gỡ tại đây. Tháng 4 năm Kiến Trung thứ 4, tại Sa
Châu (Đôn Hoàng), Thổ Phồn đã phóng thích 800 tù nhân
Đường triều. Ít lâu sau, tại vùng phụ cận Hoàng Thủy
(tức từ hồ Thanh Hải đến thành Lâm Phiên và Tây Ninh
đổ về phía Đông), Thổ Phồn phóng thích thêm một số
Đường tù nữa, cho về Cam Châu (nay là Trương Dịch, Cam
Túc) và Sa Châu (nay là Đôn Hoàng, Cam Túc). Có thể Dật
Danh Thị do buồn phiền vì tới giờ này vẫn còn bị
giam cầm, nên đã viết bài ngũ tuyệt “Hữu hận cửu
tù”.
有恨久囚
佚名氏
人易千般去
余嗟独未還
空知泣山月
宁觉鬓苍斑
Âm:
HỮU
HẬN CỬU TÙ (Dật Danh Thị)
Nhân
dị thiên ban khứ,
Dư
ta độc vị hoàn.
Không
tri khấp sơn nguyệt,
Ninh
giác mấn thương ban.
Dịch:
HẬN
CHƯA HẾT KIẾP TÙ.
Biết
bao người phóng thích,
Riêng
ra chưa trở về.
Rơi
lệ nhìn trăng núi,
Thương
tóc trắng lê thê.
Bao
nhiêu tù nhân Đường triều lần lượt phóng thích, riêng
Dật Danh Thị còn bị giam cầm. Ông chỉ biết rơi lệ
nhìn vầng trăng đầu núi và tự thương cho đầu tóc
bạc.
Những
bài thơ Dật Danh Thị viết về mỗi địa phương trên
đường lưu đày, không bài nào ông không tỏ lòng thương
nhớ Đôn Hoàng. Có lẽ vì quê hương ông (Ô Lạp Đặc
Tiền Kỳ, nay là khu Nội Mông Cổ tự trị) đã mất
trong tay Thổ Phồn. Sau thời gian phiêu bạt đó đây, nhà
thơ đã dừng chân tại Đôn Hoàng. Ông đã có nơi đây
nhiều kỹ niệm và tình cảm sâu đậm cùng những ngày
xả thân tử thủ thành trì, nên ông đã coi Đôn Hoàng là
quê hương. Cuối năm Hưng Nguyên thứ nhất, tức hơn 1
năm bị giam tại thành Lâm Phiên, Dật Danh Thị được
Thổ Phồn phóng thích cho về lại Đôn Hoàng.
Khi
Thổ Phồn chiếm thành Cam Châu, nhà thơ Mã Vân Kỳ bị
bắt cầm tù. Mùa Hạ năm Kiến Trung thứ 3 (CN 782), ông
bị áp giải rời Cam Châu. Trên đường lưu đày nhân vì
nhớ con gái và hoài niệm Đường triều, Mã Vân Kỳ có
viết bài ngũ tuyệt “Đồ trung ức nhi nữ chi tác”.
途中忆儿女之作
马云奇
发爲思鄉白
形因泣泪枯
儞曹应有梦
知我斷腸無
Âm:
ĐỒ
TRUNG ỨC NHI NỮ CHI TÁC (Mã Vân Kỳ)
Phát
vị tư hương bạch,
Hình
nhân khấp lệ khô.
Nhĩ
tào ưng hữu mộng,
Tri
ngã đoạn trường vô.
Dịch:
VIẾT
TRÊN ĐƯỜNG KHI NHỚ CON
Nhớ
quê đầu hóa bạc,
Lệ
tuôn trào khó ngăn.
Con
thử tìm trong mộng,
Biết
bố đoạn trương chăng.
Tóc
hóa trắng vì thương nhớ quê nhà, lại càng không ngăn
nổi dòng nước mắt bi thương. Các con thử tìm trong
chiêm bao, may ra biết được ruột gan ta đứt đoạn.
Mã
Vân Kỳ bị áp giải từ Cam Châu đi về phía Tây, không
lâu sau đến bờ Bắc Hồ Thanh Hải, tức cuối Xuân đầu
Hạ năm Kiến Trung thứ 4. sau cùng cũng bị giam tại thành
Lâm Phiên. Trong những ngày này, nhà thơ viết bài ngũ
luật “Bị Phồn quân trung câu hệ chi tác”, mô tả
tình huống những nơi đi qua, cùng biểu đạt tâm tư đau
xót khi hồi tưởng cảnh thành Cam Châu bị vỡ.
被蕃军中拘系之作
马云奇
何事逐漂蓬
悠悠過鑿空
世窮途運蹇
战苦不成功
泪滴东流水
心遥北翥鴻
可能忠孝节
长遣困西戎
Âm:
BỊ
PHỒN QUÂN TRUNG CÂU HỆ CHI TÁC (Mã Vân Kỳ)
Hà
sự trục phiêu bồng,
Du
du quá tạc không.
Thế
cùng đồ vận kiển,
Khổ
chiến bất thành công.
Lệ
trích Đông lưu thủy,
Tâm
diêu Bắc trứ Hồng.
Khả
năng trung hiếu tiết,
Trường
khiển khốn Tây Nhung.
Dịch:
VIẾT
LÚC BỊ GIAM TRONG QUÂN THỔ PHỒN
Duyên
cớ nào trôi dạt,
Giam
thân kiếp bềnh bồng.
Vận
cùng đường hết lối,
Khổ
chiến được công không.
Nước
mắt xuôi Đông chảy,
Bắc
phương phó Nhạn Hồng.
Ôm
tấc lòng khí tiết,
Chịu
khổn bởi Tây Nhung.
Tác
giả tự thán cho thân phận lưu đày, trôi dạt đến
những nơi thâm sơn dị tục. Vận nước không còn, trăm
điều không thuận. Khổ chiến tử thủ Cam Châu ngót 10
năm rồi cũng rơi vào tay Thổ Phồn. Ta chỉ biết gởi
nước mắt theo dòng nước xuôi Đông để nhớ về Trường
An. Còn tự thân, mặc cho cánh Nhạn Hồng dạt xô đến
chân trời Bắc. Ôm tấc lòng khí tiết với Tổ Quốc
Đường triều mà chịu giam cầm lưu đày trong tay bọn
Tây Nhung (Thổ Phồn). Số phận nhà thơ Mã Vân Kỳ cuối
cùng ra sao? Không thấy ghi trong sách chép tay “Đường
Nhân thi tập”.
Khu
vực Hà Hoàng bị Thổ Phồn chiếm lĩnh chưa tới vài
thập kỷ, hầu hết thanh thiếu niên Hán tộc đua nhau
chạy theo phong tục, nếp sinh hoạt và cả ngôn ngữ Thổ
Phồn. Truyền thống Hán tộc gần như bị lớp trẻ quên
lãng, thậm chí không còn biết mình là người Hán. Tuy
nhiên những bậc phụ lão vẫn canh cánh bên lòng mối
hoài niệm cố quốc Đường triều. Bất nhẫn trước
tình cảnh này, nhà thơ Đường Tư Không Đồ đã viết
bài thất tuyệt “Hà Hoàng hữu cảm”
Lộ
trình hai nhà thơ bị áp giải dọc con đường tơ lụa.
河湟有感
司空图
一自箫关起战尘
河湟隔断异乡春
汉儿尽作胡儿语
却向城头駡汉人
Âm:
HÀ
HOÀNG HỮU CẢM (Tư Không Đồ)
Nhất
tự Tiêu Quan khởi chiến trần,
Hà
Hoàng cách đoạn dị hương Xuân.
Hán
nhi tận tác Hồ nhi ngữ,
Khước
hướng thành đầu mạ Hán nhân.
Dịch:
CẢM
THƯƠNG HÀ HOÀNG
Từ
độ Tiêu Quan lâm bụi chiến,
Hương
Xuân cách biệt nẻo Hà Hoàng.
Trẻ
Hán đua nhau học Hồ ngữ,
Quay
lại thành đầu mắng cố hương.
Chiến
tranh xâm lược của Thổ Phồn bùng nổ từ Tiêu Quan
(Nguyên Châu), cho tới khi Thổ Phồn chiếm trọn khu vực
Hà Hoàng, đất này tưởng chừng không còn mùa Xuân. thời
gian chưa tới vài thập kỷ, con cháu Hán tộc đua nhau học
theo phong tục và ngôn ngữ Hồ (Thổ Phồn). Thậm chí còn
quay lại đầu thành mạt sát đồng bào Hán của mình.
Sau
khi khu vực Hà Hoàng lọt vào tay Thổ Phồn, Đường triều
không những không còn khả năng thu phục mà Đường Đức
Tông còn mặc nhiên công nhận sự hợp pháp của Thổ
Phồn trên những vùng đất chiếm lĩnh. Lực lượng Thổ
Phồn ngày càng mạnh, thường xuyên xâm nhập đánh phá
những khu vực còn lại của nội địa.
Như
đã trình bày ở phần trên, trong loạn An Sử, triều đình
điều hết quân tinh nhuệ ở biên giới về nội địa.
Biên phòng gần như bỏ trống bằng những lực lượng
yếu kém. Mặt khác, tướng lãnh chỉ huy biên phòng không
những bất tài, mà còn gây ly tán nhân tâm trong những bộ
tộc ít người vùng quan ngoại. Họ không những tránh né
đối mặt địch quân chiến đấu giữ đất, mà lúc nào
cũng chực hờ lùi dần về phía Đông, trong khi vẫn
thường xuyên báo công về triều đình. Tướng lãnh phòng
thủ biên tái như vậy mà trông cậy họ thu phục lại Hà
Hoàng, quả là điều vô vọng. Ngay cả vùng Lương Châu
bị Thổ Phồn chiếm từ năm Vĩnh Thái thứ 2 Đường Đại
Tông (CN 766) đến năm Bảo Lịch thứ nhất Đường Kính
Tông (CN 825) vẫn chưa thu phục được, thì nói chi toàn
bộ khu vực Hà Hoàng.
Trong
khu vực thống trị của Thổ Phồn, con dân Hán đều phải
trút bỏ trang phục truyền thống để mặc quần áo Thổ
Phồn. Chỉ đến dịp Nguyên Đán mỗi năm mới được
mặc trang phục Hán để tế tự. Tế xong phải cởi nộp
lại cho đến Nguyên Đán năm sau. Người dân Đường
triều trong khi mặc trang phục Hán, hầu hết đều quay về
phương Đông khóc thầm, hoài niệm cố quốc.
Năm
Kiến Trung thứ nhất Đường Đức Tông (CN 821), sứ giả
Đường triều Vi Luân từ Thổ Phồn về Trường An, hành
trình có đi qua khu vực Hà Hoàng. Lão bá tánh đầu kết
cỏ Bồng, chia nhau từng đoạn đường lén gặp sứ giả.
Họ đã rơi lệ quay về phương Đông bái lạy. Có người
kín đáo đưa thư báo cáo tình hình hư thực của Thổ
Phồn và bày tỏ tâm tư mong đợi quân Đường trở lại.
40
năm sau, năm Trường Khánh thứ nhất Đường Mục Tông
(CN 821), sứ giả Đường triều Lưu Nguyên Đỉnh lại
sang sứ Thổ Phồn, khi đến thành Long Chi (phụ cận Thiền
Châu, nay là phía Nam huyện Lạc Đô tỉnh Thanh Hải), có
hàng ngàn phụ lão đón gặp Lưu Nguyên Đỉnh và khóc
bái. Họ vấn an Thiên Tử và thổ lộ tâm tư không bao
giờ quên Tổ Quốc Đường triều. Không biết triều đình
có nhớ tới họ không? Nói xong lại khóc nhưng không dám
khóc lớn. Lưu sứ giả cũng kín đáo hỏi thăm lại, và
được biết hầu hết bá tánh là người quê Phong Châu.
Bị
giam giữ trong những phần đất Thổ Phồn chiếm lĩnh,
lão bá tánh người Hán bị cưỡng bức rập khuôn theo
phong tục và nếp sinh hoạt ngoại tộc. Tuy bề ngoài họ
không dám tỏ ra khác biệt. Họ vẫn choàng áo da, vẫn
trát son lên má, vẫn lấy vợ sinh con... Nhưng trải qua
nhiều thập kỷ, họ vẫn tâm niệm mình là con dân Đường
triều. Họ lúc nào cũng giữ kín trong lòng mối hoài niệm
cố quốc.
Cũng
có người Hán thoát được lưới canh Thổ Phồn tìm về
nội địa. Nhưng họ đều bị tướng sĩ Đường triều
nơi biên phòng bắt giữ và báo về triều đình là bắt
được tù binh Thổ Phồn. Mặc dù những người này đã
dùng tiếng Hán, nói rõ mình là con dân Đường triều
thoát ách Thổ Phồn tìm về Tổ Quốc, nhưng bọn tướng
sĩ bất chấp cả lòng ái quốc của đồng bào. Bọn họ
không dám đối mặt chiến đấu với kẻ thù tái chiếm
lãnh thổ. Họ chỉ bán rẻ lòng yêu nước của đồng
bào để lập công. Tàn ác hơn nữa, bọn tướng sĩ này
còn đày những con dân Hán xuống tận vùng Thấp Nhiệt,
Giang Nam (gọi là tù binh Thổ Phồn), để bịt miệng nhằm
bảo vệ chiến công dối trá của mình. Lão bá tánh Đường
triều sống trong vùng Thổ Phồn chiếm đóng đã chịu
nhiều khổ nhục, nhưng những ai đào thoát tìm về cố
quốc, sẽ gánh chịu tủi nhục hơn, dưới tay bọn tướng
sĩ Đường triều hèn mạt nơi biên cảnh.
Khu
vực Hà Hoàng bị chiếm đóng hơn 80 năm thì Thổ Phồn
có nội loạn. Thế nước ngày càng suy, không đủ sức
trấn giữ những khu vực chiếm lĩnh. Năm Đại Trung thứ
3 Đường Tuyên Tông (CN 849), lão bá tánh tại Tần Châu,
Nguyên Châu, An Lạc Châu (nay là huyện Trung Vệ, tỉnh
Ninh Hạ) và Thạch Môn, tự động thoát ly Thổ Phồn tìm
về Đường triều. 3 châu huyện phái hàng ngàn đại biểu
đến Trường An. Đường Tuyên Tông ngự giá đến lầu
thành Hi Môn tiếp kiến. Bá tánh bị đày ải dưới ách
Thổ Phồn gần thế kỷ nay mới được trở về cố
quốc. Tại hiện trường họ đồng loạt trút bỏ y phục
Thổ Phồn, thay đổi áo mủ Đường triều và hoan hô
nhảy múa. Khách bên đường đều cảm động lớn tiếng
tung hô vạn tuế.
Năm
Đại Trung thứ 2 Đường Tuyên Tông (CN 848), Trương Nghĩa
Triều người Sa Châu, thừa cơ nội bộ Thổ Phồn tranh
quyền gây nội chiến đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa,
đánh đuổi binh tướng Thổ Phồn thu phục lại Sa Châu
(Đôn Hoàng) và Tấn Xương (nay là huyện An Tây, Cam Túc).
Khoảng giữa năm Đại Trung thứ 4 và thứ 5, Trương Nghĩa
Triều đem quân đánh Thổ Phồn thu lại Y Châu, Cam Châu
(nay là Trương Dịch, Cam Túc), Thiền Châu, Hà Châu (nay là
Lâm Hạ, Cam Túc), Mân Châu (nay là huyện Mân, Cam Túc),
Khuếch Châu (nay ở phía Tây Hóa Long, tỉnh Thanh Hải) và
Lan Châu.
Năm
Đại Trung thứ 5 (CN 851), Trương Nghĩa Triều phái bào
huynh Trương Nghĩa Đàm đem bản đồ và hộ tịch 11 châu
huyện thuộc Hà Tây và Lũng Hữu, đến Trường An dâng
lên triều đình. Đường Tuyên Tông quyết định lập đại
bản doanh Nghĩa Quân tại Sa Châu và mệnh Trương Nghĩa
Triều giữ chức Nghĩa Quân Tiết Độ Sứ. Sau đó Trương
Nghĩa Triều đem quân tấn công nội địa Thổ Phồn và
Hồi Cốt (Hồi Hột), nhằm gây bất an nội địa đối
phương, để hậu phương có thời gian ổn định những
châu huyện mới tái chiếm. Làm cho quân đội 2 nước này
phải khổ chiến hơn 10 năm.
Năm
Hàm Thông thứ 4 Đường Ý Tông (CN 863), Trương Nghĩa
Triều đem hơn 7 vạn quân Đường tái chiếm Lương Châu.
Năm Hàm Thông thứ 7 (CN 866), ông thu phục luôn Tây Châu,
giải phóng toàn bộ khu vực Hà Hoàng trên Hành Lang Hà
Tây của “Con đường Tơ lụa ”.
Sau
khi Trương Nghĩa Triều tái chiếm Lương Châu, nhà thơ
Đường Tiết Phùng đã viết bài thất tuyệt “Lương
Châu Từ”, ca tụng chiến công của ông.
凉州词
薛逢
昨夜蕃兵报国仇
沙州都护破凉州
黄河九曲今歸汉
塞外纵橫战血流
Âm:
LƯƠNG
CHÂU TỪ (Tiết Phùng)
Tạc
dạ phiên binh báo quốc cừu,
Sa
Châu đô hộ phá Lương Châu.
Hoàng
Hà Cửu Khúc kim qui Hán,
Tái
ngoại tung hoành chiến huyết lưu.
Dịch:
BÀI
HÁT LƯƠNG CHÂU
Đêm
qua lâm trận báo thù nước,
Sa
Châu đột kích phá Lương Châu.
Hoàng
Hà Cửu Khúc nay về Hán,
Ngang
dọc biên cương ngập máu đào.
Trương
Nghĩa Triều vào một đêm tối đem quân tái chiếm Lương
Châu, trút mối quốc thù bị Thổ Phồn chiếm lĩnh ngót
thế kỷ. Toàn bộ khu vực Hà Hoàng từ nay trở về Hán
(Đường triều). Hoàng Hà Cửu Khúc chỉ tỉnh Thanh Hải
và Cam Túc ngày nay, thời cổ đại gọi chung là khu vực
Hà Hoàng (nằm giữa lưu vực Hoàng Hà và Hoàng Thủy).
Trận tái hiếm Lương Châu, chiến trường để lại ngổn
ngang thây giặc, máu thù chảy ngập vùng biên tái.
Năm
Hàm Thông thứ 8 (CN 867), Trương Nghĩa Triều đến Trường
An triều kiến Hoàng Đế và qua đời tại kinh đô Năm
Hàm Thông thứ 13 (CN 872). Nhân dân đời Đường tôn xưng
ông là bậc “Hết lòng vì nước”, là “Bảo hộ toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia”, và là “Anh Hùng khai thông Con
đường Tơ lụa”. Người ta dùng biền văn (phối hợp
thi ca và tản văn, biên soạn thành thông tục cố sự),
viết thành sự tích của ông. Điển hình là đoạn biền
văn dưới đây của một tác giả Vô Danh.
張义潮变文
(摘录)
无名氏
河西淪落百余年
路阻箫关雁信稀
赖得將軍开旧路
一振雄名天下知
Âm:
TRƯƠNG
NGHĨA TRIỀU BIỀN VĂN (Trích lục) Vô Danh Thị
Hà
Tây luân lạc bách dư niên,
Lộ
trở Tiêu Quan Nhạn tín hi.
Lại
đắc Tướng Quân khai cựu lộ,
Nhất
chấn hùng danh thiên hạ tri.
Dịch:
BIỀN
VĂN CA TỤNG TRƯƠNG NGHĨA TRIỀU
Hà
Tây trôi nổi ngót trăm năm,
Cách
Tiêu Quan, tin Nhạn biệt tăm.
Nay
được Tướng Quân khai đường cũ,
Thiên
hạ lưu truyền nức tiếng tăm.
Hai
câu đầu của đoạn biền văn mô tả cảnh tượng hoang
lương bi thảm của đất Hà Tây sau gần 100 năm chiếm
đóng. Tin tức từ ngoài ải Tiêu Quan đến Trường An
hoàn toàn bít kín. Hai câu sau nói về chiến công anh dũng
của Trương Nghĩa Triều, tái chiếm Hà Tây, khai thông
“Con đường Tơ lụa”, được thiên hạ ca tụng, xứng
đáng bậc anh hùng cứu nước của vương triều Đường.
Trong
số bích họa tại những thạch thất Đôn Hoàng, hiện
còn lưu giữ bức “Trương Nghĩa Triều Thống Quân Xuất
Hành Đồ”. Bức họa dài 8m rộng 1m, trong đó gồm hơn
200 người. Phía trước là đội quân nhạc và Nghi trượng.
Phía sau là đội vũ nhạc đang ca múa. Trương Nghĩa Triều
cưỡi ngựa giữa đám quan viên tùy tùng đang từ trên
cầu xuống. Bức tường đối diện phía Bắc, còn một
bức bích họa khác, kích cỡ y như bức trên: “Tống
Quốc Phu Nhân Xuất Hành Đồ”. Tống Quốc Phu nhân là
vợ Trương Nghĩa Triều, Bức họa vẽ bà đứng giữa bối
cảnh hồi sinh của “Con đường Tơ lụa ”.
“Con
đường Tơ lụa” bị gián đoạn từ khi Thổ Phồn chiếm
Lương Châu, khống chế toàn bộ khu vực Hà Hoàng (năm
Quảng Đức thứ 2 Đường Đại Tông – CN 763) cho tới
ngót 100 năm sau mới được Trương Nghĩa Triều tái chiếm
và khai thông.
[Còn
tiếp]