Từ
thời Hán Đường, những ai khởi hành từ kinh đô Trường
An, dẫm lên con đường tơ lụa đi về hướng Tây khoảng
20km là đến Hàm Dương. Một thành phố lớn hàng đầu
của Trung Quốc vào thời đó. “Hàm Dương”, cứ theo
chiết tự mà giải thì “Hàm” là bao gồm, “Dương”
là phía mặt trời, ý nói hướng dương. Từ đó mới
nói, trong khu vực này, Cửu Tông Sơn ở phía Nam, sông Vị
Hà ở phía Bắc, đều quay về hướng mặt trời, do đó
có tên là Hàm Dương.
Hàm
Dương là kinh đô nước Tần thời Xuân Thu Chiến Quốc,
dân số khoảng một triệu, Tần Thủy Hoàng trong cuộc
chiến tranh gồm thâu lục quốc (Hàn, Triệu, Ngụy, Yên,
Tề, Sở). Mỗi lần tiêu diệt một nước, ông ta ra lệnh
lấy mô hình cung điện nước đó xây dựng tại Hàm
Dương gọi là “Lục quốc cung điện”. Lục quốc cung
điện được xây dựng trên một vùng hoàng thổ phía Bắc
thành Hàm Dương, cung thất tổng cộng có tới 145 chỗ.
Trong đó tàng trữ những chiến lợi phẩm, những nghệ
nhân và cả những cung phi mỹ nữ của mỗi nước. Tương
truyền chỉ riêng cung nữ của sáu nước cũng đã tới
hàng vạn. Cho thấy “lục quốc cung diện” là một công
trình kiến trúc khá vĩ đại.
Cho
tới đời Đường, nhà thơ Lý Thương Ẩn, khi đi qua Hàm
Dương, hồi tưởng một thời xa xưa của lịch sử, có
viết bài “Hàm Dương”, một bài thất tuyệt mô tả
lại những cung điện nguy nga của một thời.
咸陽
李商隱
咸陽宮殿郁嵯峨
六國樓臺艶綺羅
自是當時天帝醉
不關秦地有山河
Âm:
HÀM
DƯƠNG
Hàm
Dương cung điện uất tha nga
Lục
quốc lâu dài diễm ỷ la
Tự
thị đương thời thiên đế túy
Bất
quan Tần địa hữu sơn hà.
Lý
Thương Aån
Dịch:
HÀM
DƯƠNG
Hàm
Dương cung điện nguy nga
Lâu
đài lục quốc dời qua phương này
Ngọc
Hoàng chếnh choáng men say
Phải
đâu Tần địa cao dài núi sông.
Bài
thơ dù mô tả sự nguy nga tráng lệ của cung Hàm Dương
và lục quốc cung điện nhưng ý tưởng sâu xa cho rằng,
do Ngọc Hoàng say rượu nên mới để cho nhà Tần bạo
ngược diệt vong sáu nước chứ đâu phải nhờ sông núi
hiểm trở của đất Tần. Ý tưởng hơi buồn cười
nhưng cũng rất đáng để suy nghĩ.
Tần
Thủy Hoàng tuy có rất nhiều cung điện, nhưng dục vọng
xây cất của ông ta vẫn chưa giới hạn. Sau khi thống
nhất thiên hạ, ông ra lệnh xây dựng cung “A Phòng”,
một công trình vĩ đại nhất trong các vương triều kể
từ nhà Tần trở về trước. Nghe nói diện tích lên đến
300 km2, 5 bộ một lầu, 10 bộ một gác (mỗi bộ tương
đương năm thước ngày nay) trên 2.000 năm trước, phải
nói đây là một công trình ngoài sức tưởng tượng,
không biết đã tiêu phí biết bao nhiêu nhân tài vật lực.
Khi Tần Thủy Hoàng chết, cung A Phòng vẫn chưa hoàn tất.
Tần Nhị Thế (Hồ Hợi) tiếp tục xây dựng.
Sau
này, khi Sở Bá vương Hạng Vũ đem quân vào Hàm Dương,
đã phóng hỏa thiêu rụi mọi cung điện. Theo lịch sử
ghi chép lại thì ngọn lửa cháy ba tháng mới tắt hẳn.
Tất cả những cung thất tráng lệ nhất từ cung Hàm
Dương, lục quốc cung điện và cả cung A Phòng đều
thành tro bụi cả.
Sau
ngày giải phóng, những di tích của kinh đô Hàm Dương cũ
(cách phía Đông thành phố Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây
ngày nay 10km) đã được khai quật. Căn cứ những di vật
đào được cộng với tư liệu lịch sử ghi chép, người
ta đã vẽ lại được đồ hình kiến trúc (phục nguyên
đồ) của cung Hàm Dương đời Tần.
Kinh
đô Hàm Dương, từ thời Tây Hán được cải danh Vị
thành. Giữa Trường An và thành Hàm Dương có con sông Vị
Thủy chắn ngang, trên sông có một cây cầu cũng gọi Vị
kiều. Những ai qua lại giữa Trường An và Hàm Dương đều
phải ngang qua cây cầu này. Do đó đương thời cây cầu
Vị Kiều này rất nổi tiếng, thường xuất hiện trong
tác phẩm của các nhà thơ, nhất là đời Đường. Nhà
thơ Đổ Phủ trong bài “Binh xa hành” đã có câu “Gia
nhương thê tử tẩu tương tổng. Trần ai bất kiến Hàm
Dương kiều” (Vợ con cha mẹ theo đưa tiễn. Bụi mù che
khuất cầu Hàm Dương).
Cầu
Hàm Dương tức Vị Kiều. Nhà thơ Lý Bạch trong đề tài
“Tái hạ khúc” cũng đã nói tới cây cầu này trong một
bài ngũ luật mô tả quân đội nhà Hán tây chinh:
塞下曲六首(其三)
李白
駿馬似風飆
鳴鞭出渭橋
彎弓辞漢月
揷羽破天驕
陣解星芒盡
營空海雾消
功成画麟閣
獨有霍嫖姚
Âm:
TÁI
HẠ KHÚC (bài 3) Lý Bạch
Tuấn
mã tự phong tiêu
Minh
tiên xuất Vị Kiều
Loan
cung từ Hán nguyệt
Sáp
vũ phá thiên kiêu
Trận
giải tinh mang tận
Doanh
không hải vụ tiêu
Công
thành họa Lân các
Độc
hữu Hoắc phiêu diêu!
Dịch:
BÀI
HÁT DƯỚI ẢI
Ngựa
hay như gió quét
Cầu
Vị thét roi rời
Cung
gỗ từ trăng Hán
Tên
lông phá giặc trời.
Trận
tàn, sao sáng tắt
Dinh
vắng biển mù vơi
Công
lớn ghi Lân các
Phiêu
diêu chỉ một người
Lê
Nguyễn Lưu dịch
Ý của
bài thơ: tướng sĩ ra roi, ngựa phi như gió qua cầu sông
Vị hướng về biên tái, đem theo cung tên, nhìn vầng
trăng Hán từ giả Trường An. Đao kiếm bay múa đánh bại
quân xâm lăng Thiên Kiêu (Thiên Kiêu chỉ Thiền Vu, thủ
lãnh Hung Nô). Chiến tranh kết thúc, quân sĩ rã rời như
khách tinh của chinh binh sợ màu trắng. Quân doanh vắng vẻ
như sương biển tiêu tan. Đoàn quân đem chiến thắng trở
về, Hoàng đế hạ lệnh vẽ chân dung công thần trên gác
Kỳ Lân, nhưng chỉ vẽ một mình tướng Hoắc Khứ Bệnh.
Ý hai câu cuối của bài thơ, thắng lợi trên chiến
trường là công lao và xương máu của toàn bộ sĩ binh,
nhưng công trạng cuối cùng chỉ qui về một mình chủ
tướng, ám chỉ sự bất công của các vương triều phong
kiến thời bấy giờ.
Nhà
thơ đời Đường Lệnh Hồ Sở viết đề tài “Thiếu
niên hành”, cũng có một bài thất tuyệt mô tả những
đoàn quân rời Hàm Dương Tây chinh:
少年行
令狐楚
弓背霞明劍照霜
秋風走馬出咸陽
未收天子河湟地
不拟回頭望故鄉
Âm:
THIẾU
NIÊN HÀNH (Lệnh Hồ Sở)
Cung
bối hà minh kiếm chiếu sương
Thu
phong tẩu mã xuất Hàm Dương
Vị
thu thiên tử Hà Hoàng địa
Bất
nghĩ hồi đầu vọng cố hương.
Dịch:
BÀI
HÀNH TUỔI THIẾU NIÊN
Cung
sáng đeo lưng kiếm ánh sương
Gió
thu quất ngựa rời Hàm Dương
Nếu
chưa thu lại Hà Hoàng địa
Thề
chẳng quay đầu ngóng cố hương.
Bài
thơ mô tả những đoàn quân thúc ngựa rời Hàm Dương về
biên tái phía Tây. Chuyến hành quân này nếu chưa thu phục
lại những vùng đất trong khu vực Hà Hoàng, do quân Thổ
Phồn chiếm đóng (Đông Nam bộ Cam Túc và Hà Tây Tẩu
Lang), thề quyết không quay đầu nhìn lại quê hương.
Tất
cả lữ hành từ Trường An, theo con đường tơ lụa về
phía Tây, đều phải dừng chân tại Hàm Dương một thời
gian ngắn. Những đoàn thương nhân cũng dừng chân tại
đây để chuẩn bị hành lý và súc vật cho cuộc hành
trình xa thăm thẳm.
Những
quan viên đi công cán Tây Vực cũng được bằng hữu đưa
chân tới đây để làm tiệc tiễn hành. Những đoàn quân
Tây chinh cũng phải dừng chân ổn định quân lữ trước
khi xuất chinh chiến đấu.
Ra
khỏi Hàm Dương, đi về phía Tây, con đường tơ lụa
phân thành hai lộ tuyến, men theo hai bên sườn hành lang
Hà Tây.
Lộ
tuyến Bắc đi qua Lễ Tuyền, Nguyên Châu, Hội Châu rồi
đến Cam Châu. Lộ tuyến Nam đi qua Vũ Công, Lũng Châu,
Thiền Châu rồi cũng hội tụ với lộ tuyến Bắc tại
Cam Châu. Từ đó, hai lộ tuyến sẽ đi cùng đường cho
đến Sa Châu (Đôn Hoàng) mới rẽ đôi trở lại.