Lâu
lắm rồi, tôi không gặp anh Tô Kiều Ngân, mặc dù chúng
tôi cùng ở chung một thành phố Sài Gòn. Được tin anh
từ trần vào ngày 20-10 vừa qua khiến tôi ngỡ ngàng. Sau
khi xác nhận, tôi gọi điện thoại cho Huy Sơn ở Mỹ
trước tiên vì Huy Sơn và Tô Kiều Ngân cùng tôi từng có
thời gian dài cùng làm việc trong tòa soạn 3 tờ báo của
Quân Đội là Bán nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hòa, Nguyệt
san Phụng Sự và tuần báo Thông Tin Chiến Sĩ.
Sau
này Huy Sơn được chuyển sang Bộ Tư Lệnh Không Quân làm
tờ báo Lý Tưởng với Hoàng Song Liêm. Huy Sơn, sau khi ở
tù cải tạo ra, đi Mỹ theo diện HO.
Tô
Kiều Ngân và tôi không đi theo diện HO, mỗi người có
một lý do riêng. Tô Kiều Ngân ở lại, có gia đình vợ
con, có nhà cửa đàng hoàng. Còn tôi lông bông ở trọ, ở
chui hết trong chợ Bàn Cờ đến Trương Minh Giảng rồi
đến chợ An Đông, cuối cùng về cái chung cư Nguyễn
Thiện Thuật và là “dân ABC đi ở thuê” với bốn năm
cái “không”. Vợ con đi tuốt hết nên trở thành độc
thân thứ thiệt, không đồng xu dính túi, không bạn bè,
không nghề ngỗng gì mặc dù qua 12 năm, 2 tháng 26 ngày ở
“trại cải tạo”, tôi trồng rau muống rất giỏi. Khối
đội phải nhờ tôi đến gieo hạt rau muống cho khu ruộng
mới. Tôi gieo hạt đều lắm và… có tay nên ruộng nào
cũng tốt. Thế mà về Sài Gòn thất nghiệp nặng. Tôi cứ
nhìn mấy cài hè phố mới được đào xới lên để lát
gạch mới, và ước ao rằng chỗ đó cho tôi trồng rau
muống thì thành phố không thiếu rau. Cái ước mơ thật
ngu xuẩn, vậy mà khi còn ở trong cái gọi là “trại cải
tạo”, đôi khi tôi lại cho điều đó có thể thành sự
thật! Bởi 12 năm, người ta dạy chúng tôi được có thế
thôi và thành phố vào những năm đó toàn dép lốp, nón
cối làm chuẩn thì việc trồng rau ở hè phố gọi là
“tăng gia sản xuất” cũng có thể được lắm chứ. Hè
phố là một sự “lãng phí của bọn tư sản”. Ý nghĩ
chưa hẳn là hoàn toàn ngu xuẩn.
Tôi
không rõ anh Tô Kiều Ngân được tha về năm nào và cũng
không biết anh ở đâu. Cái ngõ Phan Văn Trị, nơi anh ở
trước kia, tôi có đến một hai lần, nhưng không chắc
anh còn ở đó không. Sau này tôi mới biết tin anh ở mạn
Bình Thạnh và rất ít khi lên trung tâm thành phố gặp
bạn bè. Anh có những nơi vui chơi riêng ở miền “ngoại
ô”. Cho đến khi vợ chồng anh Trần Thiện Hiệp tổ
chức kỷ niệm lễ thành hôn vàng bạc 40 hay 50 năm gì
đó, khoảng năm 2007-2008 tôi mới gặp lại Tô Kiều Ngân.
Anh có vẻ khỏe mạnh hơn lần cuối chúng tôi gặp nhau
trong “trại cải tạo” ở Sơn La, vào khoảng năm
1977-78.
Mừng
cho người chết trong nhà tù “cải tạo”
Anh
Tô Kiều Ngân không ở cùng trại tù với tôi, anh đi “lao
động” bị ngã gãy tay, phải đưa về trạm xá gần
trại giam tôi ở từ năm 1976 khi được đưa ra Sơn La
“học tập”. Dịp đó, nhạc sĩ Thục Vũ, tên thật là
Vũ Văn Sâm, ở cùng đội trồng rau với tôi, anh bị đau
gan đến vàng mắt. Ban đầu còn được ở lại trại,
không phải đi lao động. Tôi có nhiệm vụ “thó” một
ít rau sống, cung cấp cho anh hàng ngày. Nhưng khi bệnh
tình quá nặng, Thục Vũ được đưa sang bệnh xá. Nói là
bệnh xá, chứ ở đây cũng chẳng có thuốc men gì chữa
chạy cho bệnh nhân. Thậm chí mỗi lần lên khám bệnh
xong, anh y tá bôi cho tí dầu cù là vào tay rồi bảo về
uống đi hoặc nằm ngửa cổ ra để “cán bộ y tế”
nhỏ cho vài giọt nước củ tỏi vào mũi. Thế là xong.
Bệnh nhân nặng chỉ còn việc nằm chờ chết. Thục Vũ
cũng ở trong trường hợp ấy.
Một
buổi sáng sớm, tôi đang lúi húi trồng luống xu hào,
bỗng thấy bên mình có cái gì kêu phần phật. Từ từ
ngước lên, tôi thấy một mảnh quần trây-di rách bị
gió thổi bay lắc lư làm nên tiếng động nghe cũng… vui
tai. Tôi nhận ra ông Phan Lạc Phúc, khoác chiếc áo trây
di cũng tả tơi “đồng bộ” với cái quần rách. Nước
mắt ông Phúc chảy rất chậm trên mặt, ông nghẹn ngào
cất tiếng:
-
Thằng Sâm chết ở bệnh xá đêm qua rồi.
Tôi
lặng người, bởi mới hôm qua, tôi lẻn sang bệnh xá
thăm, Thục Vũ đưa cho tôi hai gói thuốc lào nhỏ, anh
nói: “Tôi mệt không hút thuốc được nữa”. Ngồi nói
chuyện vài phút, anh Tô Kiều Ngân ở trạm xá này cũng
đến ngồi chơi. Tôi thấy Thục Vũ vẫn còn khỏe, vậy
mà đêm qua đã ra đi.
Sau
đó, anh Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an ủi đúng nhất,
ngắn nhất và cũng bi thảm nhất: “Mừng cho nó, từ nay
nó không còn biết đói rét và không ai hành hạ được
nó nữa”.
Đám
tang Thục Vũ, hình ảnh bi thảm nhất trong cuộc đời
chúng tôi
Nhưng
vào buổi chiều năm 1977, khi đồi núi Sơn La bắt đầu
chạng vạng, chúng tôi đang làm những công việc cuối
cùng ở vườn rau thì bất chợt nhìn sang lối ra từ bệnh
xá một khung cảnh hết sức đau lòng. Trên con đường đá
cũ nhỏ, vòng theo sườn núi cao vút chập chùng, cách vườn
rau là cái ao, đám tang bắt đầu di chuyển chậm chạp.
Hai anh cai tù vác súng AK đi đầu, theo sau là một anh tù
cầm vài nén nhang, đến 4 anh tù khiêng cỗ quan tài mộc,
sau cùng lại là 2 anh cai tù vác súng AK. Suốt con đường
dài âm u đó, chỉ có đám người ấy lặng lẽ chuyển
động như những bóng ma.
Ở
vùng đồi núi bóng tối đổ xuống rất nhanh, mang theo
sương mù mỏng dăng ngang triền dốc dựng đứng như
những bức tường đá của nhà giam thiên nhiên, chẳng
cách nào thoát ra được. Chúng tôi biết chắc đó là đám
ma Vũ Văn Sâm tức nhạc sĩ Thục Vũ. Tất cả hơn ba chục
tù nhân trong đội rau đứng ngẩn ra, dán mắt nhìn theo
cái đám ma thê thảm ấy. Ông Phan Lạc Phúc, đến bên
tôi, không nói lời nào, quay mặt đi giấu nước mắt.
Nhìn sang phía bên trạm xá, Tô Kiều Ngân và mấy anh bác
sĩ trẻ cũng là tù, đứng sau hàng rào kẽm gai cũng ngơ
ngẩn. Ngân vẫy tay cho tôi và anh Phan Lạc Phúc chẳng
biết để làm gì. Là một sự cảm thông tận cùng hay
nói lời từ biệt.
Mấy
tay coi tù cũng đứng lặng, nhìn chúng tôi và họ hiểu
rằng lúc đó dù bắt chúng tôi thu dụng cụ về trại
cũng chẳng ai chịu về, dù có bị bắn tại chỗ. Tất
cả đứng như tượng gỗ dõi theo đám tang đi trong buổi
hoàng hôn lạnh ngắt, dần khuất vào cuối con đường
cong phía chân núi. Sương mù bắt đầu tỏa xuống. Ai đó
bỗng cất lên tiếng hát “Sơn La âm u núi khuất trong
sương mù. Đoàn thù tha hương cất bước lê trên đường…”.
Một bài hát xưa cũ của những nhà cách mạng thương
tiếc những chiến sĩ bị giặc bắt cầm tù ở Sơn La.
Sao lúc này nó hợp với chúng tôi thế.
Hình
ảnh cái đám ma Thục Vũ còn in đậm trong tâm khảm chúng
tôi cho đến bây giờ. Tôi chắc anh Tô Kiều Ngân, đến
cuối đời cũng chưa quên được hình ảnh này. Nó trở
thành những kỷ niệm rất riêng nhưng cũng lại rất
chung của những ai đã từng sống dở chết dở qua những
cái được gọi là “trại cải tạo”.
Tô
Kiều Ngân và cuộc đời binh nghiệp
Có
lẽ nhiều thính giả và độc giả biết đến anh Tô Kiều
Ngân qua “Tiếng sáo Tao đàn” hơn là biết đến “đời
lính” của anh. Tôi thì khác, tôi biết anh từ khi cùng
làm chung trong mấy tờ báo của quân đội.
Trở
lại chuyện xưa, khi tôi mới được lệnh về Nha Chiến
Tranh Tâm Lý lúc đó còn trực thuộc Bộ Quốc Phòng, (sau
này mới đổi tên thành Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị
trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu), từ năm 1957, khi tôi bắt
đầu về làm Trưởng Ban Báo Chí (hồi đó chưa được
gọi là Phòng), tôi phụ trách điều hành chung. Hồi đó
anh Tô Kiều Ngân phụ trách tờ báo có tên là “Quân
Đội”, sau này cụ Ngô Đình Nhu yêu cầu đổi tên, nên
chúng tôi đề nghị và được chấp thuận đổi tên
thành báo “Chiến Sĩ Cộng Hòa”, ra nửa tháng một kỳ.
Báo dành chung cho mọi quân nhân. Tờ nguyệt san Phụng Sự,
dành cho sĩ quan do anh Huy Sơn phụ trách. Tòa soạn vỏn
vẹn chỉ có chừng 10 người, bởi việc in ấn đã do nhà
thầu đảm nhiệm hàng năm. Chúng tôi chịu trách nhiệm
biên tập phần nội dung. Ngoài 3 người chúng tôi còn các
anh Viêm Hồng, Lý Quảng, Phy Phy… Sau này, khi Cục Tâm Lý
Chiến về đường Hồng Thập Tự mới có thêm Huy Vân,
Tường Linh, Vũ Công Uẩn. Rồi còn có cả anh Đỗ Tốn,
tác giả “Hoa Vông Vang” trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn,
cũng về làm việc tại Ban Báo Chí. Nhưng ông “công tử
con quan” đó chỉ đến cho có mặt rồi lại phóng xe đi.
Anh lớn tuổi và cũng là nhà văn thuộc hệ đàn anh, vả
lại anh về đó chẳng còn bao lâu đến ngày giải ngũ.
Sau nữa có thêm Thanh Nam tái ngũ về làm báo CSCH cùng
chúng tôi.
Khi
mới bước chân vào “nghề làm báo” tôi chỉ là anh
viết lách, chưa hề quen với nghề nghiệp này. Công việc
mới tuy có thích hợp với khả năng và mong đợi của
tôi, nhưng thật ra nghề làm báo chẳng giống nghề viết
lách tí nào. Nghề đọc văn người khác, chọn bài và
sửa bài không dễ dàng.
Bạn
có biết bài học đầu tiên trong nghề làm báo của tôi
là gì không? Đó là nghề sửa morrasse, tức là làm “thầy
cò”. Những năm ấy, tất cả báo chí VN còn in typo, sắp
chữ bằng tay rồi làm bản kẽm, hình ảnh làm clicher cho
vào khuôn. Báo Quân Đội không phải kiểm duyệt nên
không bị “đục bỏ”. Tuy nhiên làm thầy cò cũng không
dễ. Phải biết các ký hiệu thay thế chữ nghĩa. Ngoài
ra còn phải biết “dàn trang”, biết trình bày từng bài
dài ngắn sao cho đúng khuôn khổ tờ báo... Đó là chút
xíu về “kỹ thuật” mà tôi phải học qua các anh Tô
Kiều Ngân và Huy Sơn. Tôi và hai anh ấy cùng sửa
morrasse, nhưng đến dernière morrasse cho nhà in chạy máy
thì tôi phải ký.
Tô
Kiều Ngân rời khỏi báo Quân Đội
Cuộc
đời binh nghiệp của Tô Kiều Ngân khởi thủy từ khi
làm tờ báo Tiếng Kèn của Địa Phương Quân ngoài Huế.
Năm 1953, anh được đồng hóa vào quân đội và đưa gia
đình từ Huế vào Saigon.
Chúng
tôi cùng làm chung trong Ban Báo Chí từ năm 1957, lúc đó
anh mang cấp chuẩn úy. Cho đến khi dọn về Hồng Thập
Tự, gần cầu Thị Nghè. Một năm sau, tôi được lệnh
đi Quân Khu 3 thành lập Đại Đội Văn Nghệ cho quân khu
này dưới quyền tướng Đỗ Cao Trí. Đại đội này có
cả sự đóng góp rất quan trọng của nhạc sĩ Anh Bằng.
Khi
Đại đội thành lập xong, đi trình diễn được ở các
tỉnh thuộc quân khu, tôi trở lại Nha CTTL. Lúc đó Phòng
Tài Liệu do anh Vũ Quang Ninh làm trưởng phòng đang thu
thập tài liệu để làm cuốn “Trăm hoa đua nở” về
vụ án “Nhân văn giai phẩm tại miền Bắc”. Tôi lại
được lệnh về đây phụ giúp anh Ninh thu thập và phân
tích những tài liệu này.
Bỗng
một buổi sáng, vào khoảng năm 1960, tôi được lệnh trở
lại Ban Báo Chí ngay. Khi trở lại tòa soạn tôi mới biết
anh Tô Kiều Ngân vừa được thuyên chuyển đi đơn vị
khác, cũng trong ngành Chiến tranh chính trị (CTCT). Quả
thật tôi không hề biết vì lý do nào. Có thể vì nhu cầu
công vụ và cũng có thể vì những lý do khác. Tôi cũng
không thể tìm hiểu rõ hơn.
Anh
đến tuổi được giải ngũ năm 1974 khi mang cấp Thiếu
Tá phục vụ tại Phòng CTCT Trường Võ Bị Đà Lạt.
Lúc
đó, để đáp ứng quân số tăng, quân đội có hơn một
triệu quân nhân, tờ báo Chiến Sĩ Cộng Hòa phát hành
200.000 số một kỳ, tính ra mỗi tiểu đội được 1 tờ.
Sau
đó vì nhu cầu tin tức chiến trường ngày một cao, chúng
tôi phải làm thêm tờ Thông Tin Chiến Sĩ, ra khổ lớn
hơn, tuần 1 kỳ gồm 8 trang.
Đến
“cuộc chơi” ở Ban Tao Đàn
Khoảng
thời gian tôi và anh Tô Kiều Ngân làm việc với nhau
chừng hơn 3 năm và cũng có khá nhiều kỷ niệm của thời
trai trẻ.
Tô
Kiều Ngân rất tài hoa và cũng đào hoa, nhưng anh rất it
khi đi ăn chơi cùng chúng tôi. Anh hơn tôi đến 6 tuổi và
đã có gia đình nên chơi khác với cánh còn “xê li bạt”
… Tôi nhớ hồi đó Huy Sơn, Nguyễn Ái Lữ và tôi, còn
rách như cái mền, nhưng thứ bảy chủ nhật lại ngứa
chân muốn đi nhảy. Ông Nguyễn Ái Lữ hiền như bụt,
vài lần rủ Tô Kiều Ngân, anh cũng không chịu đi. Anh
dành thì giờ cho ban Tao Đàn.
Đó
là khoảng thời gian từ 1957- 1960, anh Tô Kiều Ngân là
một trong những nhân vật chủ chốt của Ban Tao Đàn ở
Đài Phát Thanh Sài Gòn. Với hơn 20 năm trong cuộc đời
quân ngũ (1953-1974) thì Tao Đàn đối với anh chỉ là một
cuộc chơi. Nhưng cuộc chơi ấy lại để lại dấu ấn
đậm nét nhất, đáng giá nhất trong cuộc đời anh và
thi ca VN.
Theo
anh Phan Lạc Phúc thì sự khai sinh và công việc của Ban
Tao Đàn rất đa dạng. Xin trích lược bài nhận định
của anh Phan Lạc Phúc tức ký giả Lô Răng:
Những
nhân vật then chốt của Ban Tao Đàn
“Người
khai sinh và điều khiển chương trình Tao Đàn, như cả
nước đều biết, là thi sĩ Đinh Hùng. Chương trình Tao
Đàn có thể chia ra làm 3 bộ phận. Bộ phận quan trọng
nhất là ban biên tập và diễn đọc gồm Đinh Hùng, Thanh
Nam, Thái Thủy; vài năm sau có Huy Quang Vũ Đức Vinh từ
Nha Trang vào cộng tác. Bộ phận thứ 2 là ban ca ngâm gồm
những tài tử nam, nữ trình diễn thường xuyên hay tùy
hứng. Người “đa năng” nhất trong ban Tao Đàn là Tô
Kiều Ngân. Anh vừa là tài tử diễn ngâm, vừa biên tập,
vừa trong ban nhạc. Tiếng sáo Tô Kiều Ngân réo rắt
thường được coi là “indicatif” của Tao Đàn, hợp
cùng tiếng đàn thập lục trầm bổng của Bửu Lộc,
tiếng piano trầm ấm trước của Ngọc Bích, sau của Phạm
Đình Chương. Về giọng ngâm nam ngoài họ Tô, còn có
Hoàng Thư; một thời giọng ngâm Thanh Hùng cũng có góp
tiếng trên đài. Tô Kiều Ngân tuy giọng không khỏe nhưng
anh là người ngâm “khéo” nhất, ngâm giọng Bắc, giọng
Trung đều nhuyễn. Hoàng Thư có chất giọng say sưa, mạnh
mẽ được đời nhớ mãi trong Bài ca Ngư phủ của Vũ
Hoàng Chương. Thanh Hùng với giọng thổ pha kim, xuất sắc
trong những tác phẩm bi hùng. Có những giọng ngâm không
có mặt lâu năm trên đài nhưng vẫn được đời ghi nhớ
như Quách Đàm trong những bài lục bát hay Thiếu Lang
trong Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác.
Về giọng ngâm nữ lúc khởi đầu phải nhắc tới cái ngọt ngào của Giáng Hương nhưng các tay sành điệu đều không thể nào quên giọng ngâm đổ hột đặc sắc của bà Đàm Mộng Hoàn, một danh tiếng vang lừng tại Khâm Thiên tiền chiến trong Tỳ bà Hành. Giọng ngâm nữ nhiều năm làm thổn thức trái tim thính giả là Hồ Điệp trong những bài thơ nức nở TTKH. Về sau có một giọng nữ như sương như khói làm khởi sắc những vần ca dao dân tộc và những bài ca huyền sử. Đó là giọng ngâm Hoàng Oanh”. (ngưng trích).
Về giọng ngâm nữ lúc khởi đầu phải nhắc tới cái ngọt ngào của Giáng Hương nhưng các tay sành điệu đều không thể nào quên giọng ngâm đổ hột đặc sắc của bà Đàm Mộng Hoàn, một danh tiếng vang lừng tại Khâm Thiên tiền chiến trong Tỳ bà Hành. Giọng ngâm nữ nhiều năm làm thổn thức trái tim thính giả là Hồ Điệp trong những bài thơ nức nở TTKH. Về sau có một giọng nữ như sương như khói làm khởi sắc những vần ca dao dân tộc và những bài ca huyền sử. Đó là giọng ngâm Hoàng Oanh”. (ngưng trích).
Tiếng
sáo của những cảm xúc
Thật
ra Tô Kiều Ngân hoạt động trong nhiều lãnh vực, làm
báo, viết văn (tác phẩm đầu tay của anh là tập truyện
ngắn “Người đi qua lô cốt”), làm thơ, ngâm thơ, bài
sáo anh thổi ở Tao Đàn do chính anh sáng tác và đã xuất
bản. Nhưng nổi tiếng nhất vẫn là tiếng sáo Tao Đàn.
Bây giờ người ta nhớ đến tài năng tuyệt vời của
anh vì tiếng sáo đó và giọng ngâm thơ mang âm điệu Huế
hơn tất cả những thứ khác. Nếu so sánh với tiếng sáo
của Nguyễn Đình Nghĩa, theo nhận xét của tôi, mỗi
người có một cái hay riêng. Tiếng sáo của Tô Kiều
Ngân cất lên theo cảm xúc từ bài thơ của tác giả và
phong cách của người ngâm thơ nên bay bổng và dễ làm
rung động lòng người hơn. Tiếng sáo của Nguyễn Đình
Nghĩa hay về bài bản. Nếu anh thổi một bài như Thiên
Thai, rất điêu luyện. Nhưng nhiều thính giả vẫn nhớ
họ Tô hơn.
Từ
biệt Tô Kiều Ngân, người cuối cùng của Tao Đàn ra đi
Nhận
được tin Tô Kiều Ngân mất, sau khi điện thoại cho Huy
Sơn và Hoàng Song Liêm, tôi gọi cho Hàm Anh (còn có bút
danh là Sài Gòn Cô Nương), bởi Hàm Anh là con gái nhà phê
bình Thượng sĩ, trước đây ở cùng xóm Phan Văn Trị
với gia đình anh Tô Kiều Ngân. Chúng tôi mang vòng hoa tới
căn nhà khá đẹp của gia đình anh ở trong một xóm nhỏ
thuộc quân Bình Thạnh.
Người
đón tiếp chúng tôi rất vồn vã chính là bà quả phụ
Tô Kiều Ngân. Nhưng tôi đã đọc cái cáo phó của gia
đình trên một tờ báo nước ngoài. Nếu chú ý, bạn sẽ
thấy một sự… hơi lạ. Đó là có tới hai bà cùng ký
tên chung là vợ. Một bà là Phạm Thị Thìn, một bà là
Lê Thị Kim Hoa. Một sự “chính danh” ít thấy trên bản
cáo phó nào. Tôi phải ghi lại sự kiện này cho đúng,
xin chia buồn đến cả 2 gia đình.
Tôi
phải lựa lời khơi gợi lại chuyện cũ xem có đúng bà
này là “đệ nhất phu nhân” thời xưa tôi đă gặp
không. May quá, đệ nhất phu nhân Tô Kiều Ngân nhận ra
tôi ngay. Chị ân cần nắm tay tôi thân thiết. Các con
trai, con gái anh, cả dòng trước dòng sau, cũng thân mật
như vậy. Con gái lớn của anh (là vợ của nhà thơ Nguyễn
Tôn Nhan, mất cách đây 2 năm) cũng tới thăm hỏi. Tôi có
cảm tưởng như gia đình anh và tôi chưa xa nhau bao giờ.
Tôi
và cháu Hàm Anh cùng vào trước linh cữu anh, từ biệt
người bạn cũ. Anh ra đi là người cuối cùng cộng tác
thường xuyên, là trụ cột của ban Tao Đàn. Nhà văn Tạ
Quang Khôi tính nhẩm rằng:
-
Thi sĩ Đinh Hùng, trưởng ban Tao Đàn của đài phát thanh
Saigon, mất năm 1969 vì ung thư bao tử. Hoàng Thư, một
giọng ngâm nam rất truyền cảm, mất cách đây khoảng 20
năm ở Saigon. Hồ Điệp mất tích trên đường vượt
biên. Thanh Nam qua đời năm 1985 ở Seattle (tiểu bang
Washington) vì ung thư cuống họng. Huy Quang Vũ Đức Vinh
mất cuối năm 2005 vì bị tai biến mạch máu não trong khi
bác sĩ đang giải phẫu để làm by pass (ở Seattle). Thái
Thủy ra đi vì ung thư phổi ở Nam Cali cách đây gần 3
năm.
Từ
biệt Tô Kiều Ngân, từ biệt nhóm Tao Đàn nhưng tiếng
sáo, giọng ngâm của Tao Đàn còn lại mãi trong đời sống
thi ca Việt Nam và trong lòng người Việt yêu thơ khắp
nơi.
Văn
Quang
–