Tiếng
Stephan reo to:
Chưa
dứt lời, anh chàng ngã lăn xuống nền gạch, nằm ngay
dưới chân cô Ann Juile. Vừa nghe tiếng kêu ô...ô là ai
cũng biết nơi phát xuất, bàn gần cuối dãy giữa, đích
thị anh chàng tóc quăn từng lọn, mang nét đẹp hoang dại
thời cổ xưa Hy Lạp, vua tếu và cũng là vua dốt của
lớp 10B. Nhìn dáng nằm hai chân co cao, hai tay cầm chặc
bài thi đưa lên môi hôn liên tục, mắt nhắm mê man,
trông như đứa con nít đang được một bình sữa thơm
ngon, cả lớp cười ầm, cô Ann Julie cũng cười. Anh chàng
suốt đời đành an phận với điểm 2, cao lắm là điểm
3 trừ, nhất là môn văn, viết được một trang, thêm vài
dòng nữa thì tịt ngòi, hên lắm mới có được cái điểm
2 cộng, có nghĩa là điểm 2 giỏi. Nay được điểm 4,
dầu cho điểm 4 trừ, lại là bài thi mùa đông, sẽ được
đưa vào sổ điểm, anh chàng xỉu là phải. Cô Ann Julie
đá nhè nhẹ vô sườn Stephan, giọng âu yếm:
- Thấy
không, cô chỉ cần dán keo lên ghế của em trước giờ
thi là em ngồi lâu được hai tiếng đồng hồ, có vậy
em mới viết được nhiều.Còn nhăn nhó than là cô ác nữa
không? Viết hay, nhiều ý tưởng mới, vậy mà chỉ phải
cái tội không chịu ngồi cho nóng ghế, cứ nhấp nhỏm
muốn nộp bài đặng ra ngoài đi lòng vòng nên ý tưởng
tắt nghẹn, viết không ra. Kỳ thi tới, cô dán keo vô ghế
Stephan nhiều hơn nghen.
Đang
ôn bài thi, Stephan như cái lò xo, bật ngồi dậy, quỳ bên
chân cô Ann Julie, chấp hai tay kèm bài thi ở giữa, vái ba
cái, mặt mày mếu máo, giọng giả bộ gần khóc:
-
Híc...híc... Cô mà dán keo nhiều nữa, em được điểm 6,
em chết tại chỗ, tội nghiệp con bồ của em lắm cô ơi!
Nghe
tới đây, cả lớp như nhảy đứng, ồn ào, quên mất
chuyện điểm 3 điểm 4, quên cả cái điểm 6 mà Stephan
hứng bất tử hứa bậy, la ó:
- Trời
đất ơi, Stephan có bồ!
- Con
nhỏ cũng tóc quăn như mi, đứng tới rún mi, học lớp 9
phải không?
- Con
nhỏ số 8 có nút ruồi dưới mắt?
- Con
nhỏ số 1 mà bày đặt làm điệu làm hạnh?
- Con
nhỏ con trai...
Tiếng
láo nháo phát ra từ bốn hướng, cô Ann Julie đi nhanh lên
phía trước, gõ, gõ mấy cái lên bảng xanh, dấu hiệu
yêu cầu im lặng. Tất cả ngồi xuống, nhưng vẫn dán
mắt vào anh chàng hề của lớp, không ai nhìn cô giáo. Cô
vỗ tay ba tiếng bốp bốp bốp, thật mạnh. Bấy giờ lớp
mới chịu yên. Cô nghiêm giọng:
-
Chuyện bồ bịch để ra chơi nói, có muốn được lại
bài thi hay không thì ngồi yên. Stephan, cô cũng mừng nữa.
Cô biết em sẽ đạt được điểm cao nếu em ráng ngồi
lâu, tự tin hơn.
Lắc
lắc mái tóc nâu xậm bao phủ gương mặt xương xương
xinh tươi, chóp mũi nhọn, miệng hơi rộng, gương mặt
được học trò gọi Ann Julie Roberts, ánh mắt đảo nhanh,
nửa trêu chọc, nửa âu yếm:
- Còn
chuyện được điểm xuất sắc, điểm 6, môn văn, các em
biết là chưa ai được. Điểm 6 môn toán, môn khoa học
thiên nhiên, môn ngoại ngữ... thì có, chứ điểm 6 môn
văn, hừm... khó lắm... hừm... vậy mà kỳ thi này có
người dám cả gan ôm trọn, nếu thầy hiệu trưởng cho
phép, cô còn muốn cho điểm 7 nữa cơ.
Lại
ồn ào:
- Ai
vậy cô? Stella? Dung? Hanna?
- Từ
từ sẽ biết.
Làm
ra vẻ bí mật, kéo dài sự mong chờ, cô tiếp tục đi
đến từng học sinh, dừng nói vài câu, khi cằn nhằn,
khi khen khuyến khích trước khi trả lại bài thi.
Số
người còn lại càng ít, em càng hồi hộp. Em biết em
giỏi văn, kỳ thi nào em cũng được điểm 5 hay 5 cộng.
Hôm thi môn văn, ý tưởng tuôn không ngưng, em viết không
cần nháp, 5 tiếng đồng hồ, không kịp ăn gói bánh mì
má làm ngon đặt biệt mỗi khi em có thi. Em và nhỏ Hanna,
hai cây văn của lớp 10 B còn được thầy giám khảo
thương tình cho thêm 15 phút phụ trội để đọc lại
bài, sửa lỗi chánh tả trước khi nộp. Ra về, ngón tay
út và áp út tê cứng.
Khi
nhận được năm đề luận khơi ý đem về nhà hai hôm
trước ngày thi để chuẩn bị nhu liệu. Trong bữa cơm
chiều ngày hôm đó, em hỏi ý ba má là em sẽ chọn đề
luận nào mặc dù em đã tự chọn đề số 2 và ba má
cũng không bao giờ bắt buộc em chuyện này chuyện kia,
nhưng em vẫn muốn hỏi. Ba biểu em kể hết 5 đề tài sẽ
chọn. Em đọc xong, không suy nghĩ, ba nói ngay:
- Tại
sao con không chọn đề tài số 4, "Viết về cuộc
sống của một người ngoại quốc, một người tị nạn
tại Na Uy mà em quen biết" ?
- Con
không có nhiều nhu liệu để viết đề tài này.
-
Không có nhiều nhu liệu? Một nhu liệu sống trước mặt
con mà con nói là con không có nhiều nhu liệu.
Em
chưng hửng, má cười, nheo nheo mắt nhìn em. Em nhăn nhó:
- Đời
sống của má ở đây có gì là hấp dẫn mà ba biểu con
viết, chán phèo.
- Sao
con biết không có gì hấp dẫn? Đối với các con, cuộc
sống thế nào gọi là hấp dẫn?
Con
nhỏ em, Therese nhanh miệng:
- Cướp
nhà băng, giết người, nhiều chồng, đánh ghen...
Cả
nhà cười ầm, má lắc đầu, than:
- Đúng
là con nhỏ coi toàn TV đài 3, đầu óc con nhỏ bị nhiễm
độc rồi.
Ba
nhìn má, nói giọng khá nghiêm trọng:
- Chút
nữa cơm nước xong, hai con năn nỉ má, má sẽ dành cả
tối nay để kể chuyện cho hai tiểu thư về mình.
Hiểu
ý ba, má gật đầu. Riêng em và cả con nhỏ Therese cũng
không có gì phản đối, không cần năn nỉ. Chuyện ở
Việt Nam, chuyện tuổi thơ, chuyện các dì các cậu,
chuyện chạy giặc Mậu Thân... má kể hoài, nghe hoài
không chán. Mỗi lần nghe là óc tưởng tượng càng nới
rộng đủ mọi hướng, mỗi lẫn nghe là sợi dây kết
nối với quê-hương-của-má trong em ngày càng thắt gần.
Nhất là những cuối tuần ba đi tu nghiệp, ba má con được
ngủ chung giường, sáng nằm nướng, không bị ba quấy
rày chọc người này phá người kia, má kể chuyện Việt
Nam, chuyện thủa ấu thơ của má ở Việt Nam. Ba má con
chia nhau cái hạnh phúc xanh êm nhẹ bao trùm căn phòng ngủ
luôn thơm mùi hoa táo, cái mền đôi rộng đắp đủ cho
cả bốn người. Có hôm má đọc truyện, truyện về Việt
Nam ngày xưa, ngày xưa có nghĩa là cái thủơ má và cậu
dì còn sống ở quê-hương-của-má, cái thủa bình an
trong thời chiến tranh. Truyện Con Sáo Của Em Tôi, truyện
Thằng Vũ, truyện Con Suối Mùa Đông, truyện Bông Hồng
Cài Áo, truyện Những Người Áo Trắng... Nhưng em nhớ
hoài truyện "Chim Hót Trong Lồng", nhật ký của
một cô bé ở tuổi em, vì mẹ hành nghề không được
trong sạch nên phải gởi cô bé vô nội trú. Nỗi chờ
đợi mẹ đến thăm mỗi sáng chủ nhật, những ẩn khúc
trong đời sống thường ngày của người mẹ làm cô bé
tủi thân, thời gian người mẹ bị bịnh, ngày chôn mẹ...
Má đọc, em nằm dựa ôm má bên trái, con nhỏ Therese ôm
má bên phải. Chuyện buồn quá là buồn, giọng má đọc
lúc nghẹn ngào không dấu diếm, lúc cắt đoạn để chùi
nước mắt chảy dài trên mặt má. Nước mắt em, nước
mắt con nhỏ Therese thấm ướt chiếc áo ngủ màu thiên
thanh của má. Em đòi má đọc cho nghe truyện này hai lần
nữa, lần nào cũng nước mắt đầm đìa, để rồi khi
má xếp sách lại, không gian trầm xuống, không ai nói với
ai một lời, như để thấm thía, như để nuốt chậm
thật chậm cái mùi vị may mắn của gia đình mình thật
ngọt thật thơm pha chút ngậm ngùi cho hoàn cảnh cô bé
bất hạnh của nhà văn Nhật Tiến.
Không
ai trong gia đình em nói ra, nhưng ai cũng ngấm ngầm nhường
góc sô pha hình chữ L cho má mỗi buổi tối, sau bữa cơm
chiều. Nơi đây, với cái gối dựa lưng, ngày này qua
ngày kia, má vừa nằm vừa ngồi, đọc báo, xem tin tức,
xem phim, đọc sách, đan áo, thiếp ngủ, đôi khi ngủ mê
quá còn nói mớ làm ba đang ngồi xem TV cười ầm lên, má
thức giấc, gương mặt ngơ ngác càng làm tụi em cười
vỡ bụng. Má ngồi ở góc-sô-pha-của-má, con nhỏ Therese
ngồi bên trái, em ngồi bên phải, màn ảnh TV tối đen im
bặt, ba đi xuống phòng khách dưới hầm xem TV để lánh
mặt. Má bắt đầu kể, những mẫu chuyện rời rạc
không liên tục vì bị em hỏi tới hỏi lui, và cũng không
liên tục vì má kể những gì má nhớ, lúc mới đặt
chân xuống phi trường Fornebu, nhảy qua lúc đi xe buýt
"bị" ông tài xế thương tình không lấy tiền,
trở lại lúc tập đi ski... Em định chạy vô phòng lấy
giấy ra để ghi chú nhưng má không cho, má biểu em cứ
ngồi nghe kể như em đang lục tìm nhu liệu để viết cái
đề luận, góm nhặt mọi dữ kiện, lọc lừa, sắp xếp,
dùng trí phán đoán mà chọn lựa, tối nay nằm suy nghĩ
lại, ngày mai còn một ngày ghi chú. Đến ngày thi, dùng
ngòi bút mà dựng dàn bài, dùng tâm hồn mình mà diễn
tả. Em quyết định viết theo thể "tôi", dễ
diễn tả tâm tình, nghĩ suy, dễ đặt mình vào tâm hồn
nhân vật, dễ lôi cuốn người đọc, nếu em chọn đề
tài này.
Tâm
hồn em xáo động. Lời má kể, lúc cười, lúc ứa nước
mắt, lúc trầm ngâm ngập ngừng, lúc rộn ràng háo hức.
Em sống với má mười lăm năm, là con gái, em và con nhỏ
Therese thân với má hơn với ba, thông cảm nhau dễ dàng
hơn. Em tưởng em hiểu má, nhưng sau tối hôm đó, em, có
lẽ cả con nhỏ Therese thua em hai tuổi, mang những mẫu
chuyện má kể vào giấc mơ để thấy má mình khác lạ
hơn hôm qua, để bắt đầu quan sát, đặt dấu hỏi về
những sinh hoạt thường ngày của má. Em và con nhỏ
Therese thường phê bình rằng má sống chán phèo, chỉ
biết đi làm, đi chợ, nấu ăn, nằm nhà đọc sách báo,
đan thêu, xem điện báo, thỉnh thoảng lắm mới đi chơi
riêng với nhóm bạn của má, thế thôi. Không có một thú
vui riêng nào. Đời sống nghèo nàn. Không như má của bạn
em, người trong đội banh chuyền, người trong câu lạc bộ
làm đồ gốm, người trong đội kèn... ai cũng có những
sinh hoạt, những thú vui riêng tay, một người hai ba thú
vui, ai cũng muốn làm giàu đời sống mình bằng những
thú vui này nọ. Có lần má khuyên Therese học sư phạm vì
con nhỏ coi bộ thích trẻ em, rành tâm lý tụi nhỏ.
Therese dẫy nẫy: "Rồi con sẽ sống một cuộc sống
nhàm chán như má sao?" Lúc đó em hoàn toàn đồng ý
với con nhỏ Therese. Nhưng bây giờ, có lẽ em hiểu một
phần cái đời sống bị các con gọi là nhàm chán đó.
Chỉ
còn mình em chưa nhận lại bài thi. Cả lớp ai cũng hiểu
em là nhân vật đã bao gọn cái điểm 6 hôm nay. Em cố
dấu niềm hãnh diện, con nhỏ bạn thân Hanna, cũng là cây
văn của lớp, ngồi kế em, dang tay ôm vai em, nói to:
- Chúc
mừng Stella.
Các
bạn vỗ tay. Mặt em nóng bừng. Cô Ann Julie đứng giữa
lớp, tay cầm bài thi duy nhất chưa trả lại cho học
sinh, nhìn em, giọng âu yếm:
-
Stella, em cho phép cô đọc bài văn này cho cả lớp thưởng
thức nha, em không cần phải vị nể cô, vị nể bạn bè,
cô hiểu em nếu em từ chối.
Em bối
rối. Khi em viết, em không nghĩ rằng em sẽ chia sẻ một
quảng đời, tâm tình của má em cho tất cả bạn bè
trong lớp. Em để ngòi bút trôi theo dòng tư tưởng không
ngưng và mãn nguyện với bài viết của mình. Vậy thôi.
Bây giờ cô muốn đọc cho cả lớp nghe. Tại sao không?
Em hãnh diện em mang một nửa dòng máu Việt Nam, em hãnh
diện khi em dạy tụi bạn hát nhạc karaoke Việt Nam, em
sung sướng khi thầy cô khen món chả giò má đóng góp
trong các buổi cơm Tình Thương, em ngấm ngầm vui khi thầy
hiệu trưởng gọi điện thoại cám ơn má vì má nhận về
nhà bốn học sinh từ Ganha do trường bảo trợ trong hai
tuần... Ai cũng biết má em là người Việt Nam. Nhưng có
mấy ai biết má là thuyền nhân tỵ nạn? Tại sao không?
Tại sao không thể chia sẻ những nghĩ suy, những tâm tình
với nhau để đưa đến sự cảm thông quí mến nhau hơn
khi tất cả cùng thở một bầu không khí mát lạnh trong
sạch này?
Em gật
đầu. Cô Ann Julie bắt đầu đọc.
Cách
đây ba mươi năm, nếu các bạn hỏi tôi vì sao đất nước
tôi đã hết chiến tranh, tôi, một người thiếu nữ trẻ
khỏe mạnh, không bắt tay với mọi người cùng nhau xây
dựng lại quê hương? Tại sao tôi lại bỏ quê hương,
tìm lánh thân ở một đất nước hoàn toàn xa lạ từ
ngôn ngữ, lề lối, nếp sống? Xin thưa, sẽ cố gắng
thật ngắn gọn cho nên cũng chung chung cho hầu hết người
dân miền Nam: Sau chiến tranh, toàn Việt Nam sống dưới
chế độ cộng sản, một chế độ cai trị đang giết
lần mòn bản tính bổn thiện con người, con người không
phục vụ con người nhưng phục vụ lý tưởng đảng cộng
sản quốc tế, tiếp tục làm nô lệ cho quan thầy Nga
Tàu, hoàn toàn đi ngược ước muốn cầu tiến tự chủ
của người dân. Không một dấu tích của chữ tự do
ngôn ngữ, tự do tín ngưỡng trong chính sách cai trị độc
đảng. Và dĩ nhiên độc đảng thì từ ngữ dân chủ
không được ai nhắc đến, không dân chủ thì người dân
sống thế nào, không kể ra, các bạn cũng thừa hiểu.
Miền Nam hết chiến tranh nhưng không có sự bình an. Bắt
bớ, thủ tiêu, vu khống, thù oán cá nhân... một xã hội
mang đầy lo âu, luôn luôn sợ không biết ngày mai mặt
trời có còn chiếu trên gương mặt mình. Đặc biệt cho
những người đã phục vụ cho chế cũ ở miền Nam. Tôi
không muốn tôi, các con tôi sau này sẽ lớn lên trong xã
hội đó, sẽ là một công cụ của chính quyền Cộng Sản
đó, cái chính quyền đã và sẽ đóng dấu mật mã đen
trên tờ lý lịch những người trong gia đình tôi là
"thành phần nghi ngờ", cái chính quyền không cho
chúng tôi cơ hội ngẩng đầu lên. Chính quyền mới này
không cho phép chúng tôi hãnh diện với lịch sử ngàn đời
của dân tộc mình. Đối với họ, lịch sử nước nhà
chỉ tính từ khi đảng Cộng Sản Việt Nam hoạt động
tại Việt Nam. Phải không bạn, không một đứa con nào
muốn từ bỏ gia đình vì cha mẹ nghèo khổ. Chỉ khi nào
con cái bị cha mẹ lợi dụng, hành hạ quá đáng, nên
phải cắn răng trốn đi... Nhiều quá làm sao kể cho hết.
Tôi đã hứa sẽ nói ngắn gọn cơ mà. Chỉ biết rầng :
Tôi bước đi vì không muốn làm kẻ tội đồ - Vì tôi
muốn lại kiếp con người - Muốn cuộc đời còn có
những nụ cười**
Bằng
mọi cách, tôi phải thoát khỏi đời sống đó. Con đường
vượt biển khơi là cách duy nhất để thoát khỏi Việt
Nam. Sau ba năm cố tìm đường sống, sau hai năm trốn chui
trốn nhủi tìm đường thoát, sau năm ngày lênh đênh trên
biển khơi, một chiếc tàu chở dầu của Na Uy đã thương
tình vớt tàu chúng tôi. Từ đó, chính quyền Việt Nam
gọi chúng tôi là thành phần phản quốc vì chúng tôi
không muốn sống dưới sự cai trị của họ, tìm tị nạn
ở một quốc gia khác, một cách tường thuật cho thế
giới bên ngoài biết về tình cảnh không có chỗ đứng
cho những người yêu tự do trọng nhân quyền trên đất
nước Việt Nam. Tôi trở thành thuyền nhân tị nạn với
hai bàn tay trắng, với ước nguyện tự tạo cho mình một
đời sống có ý nghĩa hơn dưới bầu trời tự do này.
Người
trưởng phòng tỵ nạn Vestby và bà thư ký đón chúng tôi
bằng cách chia cho mỗi người một cái mền ngay tại phi
trường. Không cần thông dịch vì họ biết chúng tôi đã
vừa theo học, vừa là phụ giảng khóa tiếng Na Uy 6 tháng
ở trại tị nạn Bataan. Xe đưa bốn người chúng tôi
chạy xuyên Oslo, ra E 6 theo hướng Moss, về công xã Vestby,
cách Oslo 40 km, nơi văn phòng tị nạn đã chuẩn bị một
ngôi nhà khang trang cho bốn chị em. Ngày hôm sau, trời
tháng hai căng cắt lạnh, tuyết trắng phủ ngập đường,
bà thư ký đưa chúng tôi xuống phố Moss để mua sắm
quần áo. Những ánh mắt ái ngại không dấu diếm dành
cho bốn quái vật với đôi giầy sandal, cái áo thun mong
manh, quần mùa hè, ngỡ ngàng chọn lựa áo quần. Cung cấp
cho chúng tôi nhà cửa chu đáo đầy đủ tiện nghi để
rồi quăng chúng tôi ra đường trong lớp áo mong manh, Na
Uy đón chúng tôi thế đó, nghĩ chỉ buồn cười.
Để
hội nhập vào một xã hội hoàn toàn khác lạ, không khó
lắm đâu. Ở đâu lấy nhân bản làm thước đo giá trị
con người, ở đó cho ta được có cơ hội sống hoà đồng
với nhau, thương yêu nhau. Na Uy có hầu hết hai điều
kiện trên, nhiều nơi, nhiều người.
Những
ngày đầu làm việc ở một trường tiểu học, giờ ra
chơi, thấy một em té trầy cùi chỏ, đang rươm rướm
nước mắt. Tôi vội đi lại, lòng chợt ngần ngại, cái
màu da xậm màu này sẽ làm con bé sợ chăng. Không đủ
thời giờ cho sự tính toán dè dặt, ngồi xuống, đặt
con bé lên đùi, thổi nhè nhẹ, dùng ngón tay xoa quanh chỗ
trầy, an ủi. Con bé dựa vào tôi, lâu lắm. Tình người
nơi trẻ con như thế đó.
Có
một lần, là phụ giáo ở lớp Một trong thời gian còn
đi học thêm. Giờ vẽ, học sinh sẽ vẽ một người
thân. Hai em vẽ tôi với mái tóc dài màu vàng kim, mắt
xanh đậm, một cách vẽ như máy móc khi các em vẽ người,
đứng thẳng băng, tay chân có đủ năm ngón. Thế đó,
trẻ em tiếp nhận tôi với tấm lòng trong sáng, trẻ em
không nhìn thấy màu tóc tôi đen, không nhìn thấy màu da
sậm nâu, không khó chịu khi tôi nói năng ngọng nghịu,
cái tình chân thật giữa người và người.
Những
năm đầu, tôi rất mau nước mắt. Tôi luôn luôn giận
tôi vì cái ủy mị dễ ghét này. Dầu cho sự ủy mị có
nguyên nhân của nó. Trốn khỏi Việt Nam, tôi chấp nhận
bỏ tất cả ở lại quê hương: ba má, các em, nội ngoại,
cậu dì, cô chú, bạn bè, cây khế ngọt làng quê Đại
Nẫm, cành mai vàng đầu xuân, bãi biển Vĩnh Thủy cát
mịn óng vàng, dòng sông Mương Mán chia đôi phố thị
mộng mơ... đang ngập chìm. Bỏ và không bao giờ gặp
lại. Chính tư tưởng không-bao-giờ-gặp-lại là cây kim
đâm từng mũi vào tim, vào tuyến nước mắt vì những lý
do vặt vẵnh đâu đâu. Một lời hát, một điệu hò, một
áng văn, một ý thơ, ngày lễ lộc, một ánh mắt thuơng
hại, một ánh mắt nghi ngờ, một lời nói vô tình, một
kỷ niệm hiện về bất chợt... Tôi chấp nhận bỏ tất
cả ở lại quê hương nhưng không lường trước được
những mũi dao thương nhớ đâm chém tim tôi mạnh như thế,
xoáy sâu như vậy, làm tội làm tình tôi mà không bao giờ
báo trước. Tự do ơi tự do! Tôi trả bằng nước mắt...
Vì hai chữ tự do, ta mang đời lưu vong**
Tay
cầm sẵn bảy kroner để trả xe buýt, tôi gật đầu chào
ông tài xế, nói: "Ông ngừng trạm Sinsen dùm tôi, cám
ơn!" Ông tài xế nhìn tôi với ánh mắt thiện cảm,
lắc đầu, ra dấu không chịu lấy tiền. Tôi bỡ ngỡ.
Phía sau còn vài người đứng chờ, sợ làm phiền mọi
người và hiểu nhanh lòng thương hại của người tài
xế, tôi cắn môi, mắt tôi cay cay. Ngồi xuống băng ghế,
nước mắt tủi thân tràn tuôn không ngăn được. Tôi
quay mặt ra đường, cố nuốt cục nghẹn nơi cổ, lén
chùi nước mắt. Người ta nhìn tôi như một thiếu phụ
quê mùa nghèo khó, người ta thương hại tôi. Tôi tủi
thân. Tôi thẩn thờ nhận ra chỗ đứng của mình trong xã
hội này. Tại sao ông tài xế không cư xử với tôi như
với tất cả mọi người, tôi khỏe mạnh, tôi không sứt
mẻ. Tội nghiệp ông, làm ơn mắc oán!
Sống
ở Na Uy được khoảng hơn một năm, trong buổi họp của
hội Hồng Thập Tự Na Uy, hội Nhà Thờ Cứu Giúp, dành
cho những người đồng-bào-mới, với đề tài: Hệ thống
giáo dục của Na Uy. Thuyết trình viên nói chậm chậm,
từng câu đơn giản, từ ngữ sơ đẳng. Bà ấy đang tỏ
cử chỉ cảm thông những người đồng-bào-mới, bà đang
đánh giá khả năng nghĩ suy của chúng tôi như trẻ em
mười tuổi. Ông ấy cố gắng giải thích tỉ mỉ, tránh
không dùng những phương cách trình bày có hệ thống. Ông
quên cái hành-trang-đời chúng tôi mang theo mình chăng? Bà
không biết rằng những người ngồi nghe bà nói chuyện
đã trưởng thành, đã ngồi ghế nhà trường ít nhất
mười hai năm? Mặt tôi đỏ dần, nóng dần. Hành-trang-đời
của mỗi người là mạch sông ngầm được tích lũy dần
dần năm này qua năm kia, luân lưu dưới lòng đất. Rễ
cây xoài ăn sâu dưới lòng đất, trúng mạch nước, sẽ
làm màu lá xanh tươi, cho hoa kết trái. Rễ cây thông hút
được mạch nước sẽ cao lớn để vững mạnh dưới
bầu trời trong thanh. Rễ cây hoa chuông tuyết được thấm
mạch nước, nằm đó dinh dưỡng, chờ ngày nắng ấm mà
vươn mình khoe sắc... Tất cả cũng chỉ từ một mạch
nước. Chúng tôi cũng đã và đang sống trên cùng hành
tinh xanh dương này như người Na Uy mà! Cùng học những
trang lịch sử thế giới, những lý thuyết toán học,
những lý thuyết vật lý học, những nhân sinh quan, những
tư duy học... của nhân loại trên trái đất mầu xanh
này, như người Na Uy, chỉ khác là bằng một ngôn ngữ
xa lạ thôi.
Sau
một năm học tiếng Na Uy, làm việc ngày 12 tiếng, tôi tự
lập từ từ, không còn là người-nhận, lòng tự tin đầy
dần. Tôi tin rằng cái tự tin ở mỗi người là vũ khí
tự vệ vững vàng nhất, trong mọi trường hợp. Lòng tin
người và yêu người là nhịp cầu cho sự cảm thông, là
viên tẩy xóa dần màu da màu tóc, là gạch nối thương
yêu, kéo sống lưng ta thẳng đứng, nâng đầu ta nhìn
thẳng về phía trước. Từ từ, tôi không còn ngần ngại
khi dang tay đỡ một người già Na Uy qua đường, không
còn khó chịu trước những ánh mắt theo dõi kín đáo
trong tiệm mỹ phẩm, tiệm nữ trang, không tủi thân rưng
rưng vì một lời nói vô tình, không nóng mặt vì một cử
chỉ quơ-đũa-cả-nắm...
Tự
lập, xóa được mặc cảm ăn nhờ ở đậu nhưng không
phụ ơn đất nước đã mở vòng tay đón mình, tạo điều
kiện cho mình tiến thân. Như đa số các đồng hương
khác, chúng tôi cần ít ra cũng vài ba năm, vừa đi học
vừa làm thêm để mới có tự phụ thế đứng tự lập
của mình. Chúng tôi hái dâu ngày mười tiếng mỗi ngày
mùa hè, chúng tôi thức dậy bốn giờ mỗi buổi sáng để
bỏ báo, chúng tôi nhận sơn nhà này qua nhà kia, chúng tôi
lau văn phòng, lau truờng học... đồng tiền tự tạo ra
đã cho chúng tôi niềm tin, lòng phấn khởi tiến tới,
xóa tan mặc cảm ăn nhờ ở đậu. Tôi không còn là người
thiếu-phụ-quê-mùa đáng thương hại trên chuyến xe buýt
ngày nào. Tôi thành người cầm lon mang dấu hiệu FN Liên
Hiệp Quốc, đi đến từng nhà lạc quyên giúp các nước
nghèo trên thế giới do đài Truyền Hình Quốc Gia tổ
chức trong tuần lễ đánh dấu ngày thành lập FN, ngày 24
tháng 10 mỗi năm. Tôi trở thành người đóng góp trong
công cuộc tranh đấu bảo vệ nhân quyền, bằng cách
sống, bằng hành động. Chung góp một giọt nước, một
hạt cát, mong xoa dịu nỗi thống khổ của con người,
cũng là một cách trả ơn, trả ơn Na Uy, trả ơn tình
nhân loại.
Na
Uy dang tay đón tôi hòa đồng dưới khung trời nhân ái,
cho tôi niềm tin, cho tôi hy vọng, cho tôi cơ hội tự đấu
tranh, vươn lên. Không bao lâu, tôi thành một phần tử
cần có, một viên gạch nối tiếp, lẫn lộn với những
viên gạch khác, gìn giữ và bồi đắp cái xã hội, cái
cộng đồng tôi đang sống, tiếp tay tô điểm vườn hoa
loài người. Tôi là người hữu dụng. Tôi được tin
yêu. Tôi được phép yêu người bằng tấm lòng bổn
thiện của loài người. Tôi được sống một đời sống
có ý nghĩa như tôi tâm nguyện khi trốn khỏi Việt Nam,
khi đặt chân lên đất nước Na Uy này. Tôi được phép
giáo dục uốn nắn thương yêu các con tôi như tôi ao ước.
Tôi không còn ao ước gì hơn nữa. Tôi không có nhu cầu
tô son điểm phấn cho "cuộc sống của cái tôi"
ngày càng phong phú vì khi so sánh với đồng bào ở Việt
Nam, tôi cảm thấy mình rất may mắn, đầy đủ hơn họ
nhiều lắm, nhiều lắm, từ tinh thần đến vật chất.
Bây
giờ các bạn sẽ hỏi: Việt Nam đã mở cửa tiếp nhận
thế giới bên ngoài, anh chị được tự do về thăm Việt
Nam, anh chị không còn là người tị nạn nữa, sao anh chị
không trở về quê hương của anh chị, sao anh chị không
tiếp tay xây dựng quê hương. Xin thưa, nhưng lần này tôi
sợ tôi không kể ngắn gọn được. Chúng tôi, những
người đã bị chính quyền xếp vào thành phần phản
quốc, bây giờ là "con cưng" bởi một phần ba
lợi tức quốc gia do đồng đô-la của chúng tôi mang về.
Chính quyền đã biết lợi dụng lòng thương họ hàng,
lòng yêu quê hương của những "núm ruột ngàn trùng"
này. Chúng tôi chỉ được phép về thăm chứ không được
về ở. Những Việt Kiều này về ở luôn thì đương
nhiên nguồn tài ngoại bị sứt mẻ. Điều chính yếu
nhất là khi về định cư lâu dài, những Việt Kiều này
sẽ ngấm ngầm khơi dậy, tuyên truyền, tô đậm tư tưởng
yêu tự do, tinh thần dân chủ, chữ nhân quyền... mà
người dân chung quanh không dám nghĩ tới, không dám nhắc
tới, cố tình làm lơ sống qua ngày.
Trở
về thăm thành phố tuổi thơ, thành phố Phan Thiết chỉ
cần nửa giờ là trở về chốn cũ *, thế mà tôi đi
ròng rã, mất mấy giờ đồng hồ, không gặp một người
quen. Này tiệm sách, nơi tôi đã từng đứng trước quầy
kính, túi rủng rỉnh vài xu mà dám ước ao được mua hết
các kệ sách, nhưng lần này tiền đầy túi mà sách thì
không muốn mua. Con đường đến trường Nữ tiểu học
tôi đã đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi
thấy lạ vì cảnh vật chung quanh đều thay đổi hay chính
lòng tôi đang thay đổi lớn: Hôm nay tôi là một Việt
kiều *. Một Việt kiều "bị" nâng niu bằng tấm
lòng giả dối, bằng nụ cười mỉa mai sau lưng. Tôi là
Việt Kiều trên chính quê hương tôi! Này bãi biển Thương
Chánh ngày xưa vang tiếng cười đùa với sóng biển, cố
bơi đua cùng nhỏ bạn những sáng sớm tinh sương vì sợ
ánh nắng lên cao làm xậm thêm màu da nâu hồng, nay là
khách sạn có lính canh vì chỉ dành riêng khách ngoại
quốc, cho khách dùng đô la... Những mảnh đất trên chính
quê hương tôi chỉ dành riêng cho người lắm tiền lắm
bạc, tôi không muốn đặt chân đến đó... nhiều quá,
làm sao tôi kể cho hết đây.
Tôi
trở về thành phố tuổi trẻ của tôi, Sài Gòn. Khi điền
vào các đơn từ, tôi khổ sở ngượng ngập vì phải
dùng một tên mới, kệch cỡm kiêu căng: thành phố Hồ
Chí Minh. Các bạn có khi nào nghe tên một người được
dùng gọi cho một thành phố chưa? Tôi khổ sở, tôi tránh
né, tôi lì lợm... khi tôi phải dùng cái tên đó thay vì
Sài Gòn. Góc phố xưa còn đó, hàng cây sao vẫn thẳng
cao đọng nắng, cây quỳnh đàn già vẫn mang màu vàng rực
rỡ mỗi cuối xuân, con hẽm quanh co nước vẫn ngập chân
sau cơn mưa nhiệt đới... Còn đó? Hay đang ngộp thở
quay vòng vòng trong bụi cát theo nhịp sống không có chút
nghỉ ngơi. Đa số các con đường đã mang tên những vị
anh hùng dân tộc cứu nước và dựng nước bị thay thế
bằng tên một thiếu nữ, một thanh niên đã dấn thân
cho cuộc chiến tranh bành trướng của Cộng Sản Thế
Giới được ngụy trang bằng chiêu bài là
"đánh-Mỹ-cứu-nước"... Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu
Công Lý - Đồng khởi vùng lên mất Tự Do... Sài Gòn với
tôi bây giờ thế đó. Sài Gòn ngây thơ ngái ngủ yên hòa
trong thời chiến không còn của tôi nữa, của bạn bè
yêu thơ yêu nhạc yêu người ngày xưa. Sài Gòn không còn
là nỗi nhớ ray rứt trong lòng người xa xứ như nhà thơ
Song Nhị nhắn nhủ... Em ạ, Sài Gòn như núm ruột - Như
con xa mẹ nhớ từng đêm - Nhớ Khu Thương xá. Chiều Lê
Lợi - Nhớ bến đò ngang quá Thủ Thiêm. Sài Gòn không
còn lại gì để nhớ để thương cho tôi hay sao? Hỡi Sài
Gòn!*
Là
người khách du lịch vài tuần với chiếc máy ảnh lủng
lẳng trước ngực, bạn sẽ thấy những tòa nhà sang
trọng, những khu du lịch bốn sao năm sao, một số đường
phố ngợp ánh đèn màu, tiệm ăn ngày đêm tấp nập
người ra vô... Bạn sẽ thầm nói: "Thấy dân chúng
sống cũng thoải mái đó chớ." Đó là vì bạn không
sống ở Việt Nam mười lăm năm trước để nhận ra rằng
sau bao năm sống trong ngột ngạt đen tối, nay nhà nước
nhỏ từng giọt, từng giọt-tự-do ăn chơi, từng
giọt-tự-do lừa đảo nhau... Những giọt-tự-do đã đánh
lừa bạn như lớp lục bình hoa tím lá xanh trôi nhởn nhơ
trên vùng nước lắm bùn lầy, đã đánh lừa biết bao
người dân sung sướng nhận hưởng ân phúc và hát những
lời nhạc của Trịnh Công Sơn để tự an ủi: ... Em ra
đi nơi này vẫn thế - Lá vẫn xanh trên con đường nhỏ...
Đó là vì bạn không biết ai làm chủ và nguồn gốc có
được những cơ ngơi to lớn nhan nhản khắp phố thị.
Đó là bạn không biết rằng có những chị đội rổ đậu
phọng luộc trên đầu, những bà mẹ vai nặng trĩu gánh
chè, những em da cháy nắng cầm xấp vé số... ròng rã
đường quê phố chợ cả ngày trời để đủ tiền cho
bữa cơm. Nhiều quá, biết kể sao cho xiết. Cứ mỗi lần
nghĩ đến là tim tôi nhói đau.
Tôi
chưa bao giờ có ước muốn trở thành người Na Uy, và
biết chắc rằng không ai nhìn tôi là một người Na Uy,
dầu tôi có mặc quốc phục Bunad, dầu tôi ăn khoai tây
mỗi bữa cơm chiều, dầu tôi nói tiếng Na Uy lưu loát.
Về Việt Nam tôi không cảm thấy mình là một phần tử
trong nếp sống tại đó, tôi là người xa lạ trên chính
quê hương tôi, xa lạ từ cách sống cho tới tư duy. Bạn
đừng cho tôi là người tự kiêu. Bạn nên hiểu rằng
tôi là người may mắn được tiếp tục dưỡng nuôi bằng
những dòng sữa nhân bản mà tôi đã được hưởng dưới
vườn cây trái Đại Nẫm mát xanh hiền hòa trong nếp
sống tự do nơi xứ bạn, hai mươi lăm năm, không ít đâu
bạn nhỉ.
Ở
Việt Nam, không ai cho tôi làm người Việt Nam. Làm sao tôi
có thể làm ngơ trước bao cảnh sống nơi đó danh từ
nhân bản từ lâu đã trở thành hiếm hoi? Cách đây ba
mươi năm, vì không thể nhắm mắt, không thể bịt tai,
không thể ngậm miệng, không thể dửng dưng ăn ngủ giữa
"Bụi và Rác" như nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã
diễntả cho nên tôi phải trốn khỏi quê hương tôi và
được trốn thoát khỏi quê hương trong niềm mơ ước
của chục triệu người dân. Thì bây giờ làm sao tôi có
thể bịt tai, ngậm miệng, nhắm mắt, thản nhiên mà ăn
mà ngủ trên quê hương vẫn tiếp tục lắm "Bụi và
Rác"? Bạn lại bảo rằng xã hội nào cũng có lắm
"Bụi và Rác". Đúng vậy, nhưng "Bụi và Rác"
ở xứ tôi nhiều quá, một phần bị ép chặt dấu diếm,
một phần nhởn nhơ đầy dãy làm tôi ngộp thở, làm tôi
cay mắt, làm tôi ù tai.
Tôi
nghiêng mình kính phục triệu triệu người dân tôi đang
kiên tâm vượt sống giữa "Bụi và Rác". Tôi cúi
đầu kính phục triệu triệu người dân tôi tiếp tục
nhẫn nại cong lưng nhặt từng cọng "Rác", phủi
từng hạt "Bụi" với ước vọng dọn con đường
sạch mát cho thế hệ mai sau. Tôi nghiêng mình kính phục
triệu triệu người dân tôi nhẫn nhục chịu đựng, cố
nuôi dưỡng nếp sống đạo đức dân tộc qua ba mươi
năm và còn đang tiếp tục. Tôi cúi đầu kính phục triệu
triệu người dân tôi không quản ngại tù tội đang tranh
đấu cho một Việt Nam dân chủ.
Rồi
bạn lại hỏi: "Thế bạn là người tránh né "Bụi
và Rác" sao? Bạn không làm gì được cho quê hương
bạn sao?"
Tôi
có trái tim và khối óc. Trái tim tôi khóc trước bao lầm
than trong cảnh sống tận cùng của người dân mình. Trái
tim tôi thúc đẩy tôi chung góp vài viên sỏi nhỏ nhoi vào
những công trình của triệu người Việt hải ngoại đang
cố gắng chia sẻ với người dân mình nơi quê nhà. Khối
óc tôi lại bảo: Đừng! Hãy nghĩ đến tâm huyết của
những người, những công cuộc tranh đấu dân chủ tại
quê nhà và tại hải ngoại. Tôi phải thú nhận là tôi
tránh né "Bụi và rác". Tôi đang bị trái tim và
khối óc dằn vặt đêm ngày. Tôi cố tìm một hướng đi
để trái tim hài hòa cùng khối óc.
Với
cái quốc tịch Na Uy để bảo đảm an toàn, tôi nôn nóng
khi được phép về thăm quê hương. Nhưng vài tuần sau,
tôi lại nhớ quê hương thứ hai của tôi, ước ao được
hít thở lại không khí trong mát tự do này. Tính ra, đến
ngày nay, khoảng thời gian tôi sống ở Na Uy dài gần bằng
năm tháng tôi sống ở Việt Nam, thế mà tôi vẫn còn nằm
mơ bằng tiếng Việt Nam, trong khung cảnh Việt Nam, tôi
tính toán dễ dàng hơn bằng tiếng Việt Nam, thấm sâu
hơn câu thơ, áng văn Việt Nam, tâm hồn tôi mãi mãi là
Việt Nam, Việt Nam của thời trước ngày 30 tháng 4 năm
1975. Và chắc chắn 30 năm sau, khoảng thời gian sống ở
Việt Nam chỉ chiếm một phần ngắn cuộc đời tôi, tôi
vẫn mãi mãi là người Việt Nam, trong tận cùng, chỉ
trong tận cùng.
Nhà
văn Dương Như Nguyện tự cho mình lộng ngôn, tự cho mình
rởm sau khi bà nói chuyện trước đám đông rằng thế hệ
của bà, cũng cùng thế hệ của tôi, giống như những
con người cá, nửa người nửa cá vì bà cho rằng chẳng
có một vật thể nào gọi là người cá. Tôi không cho đó
là lộng ngôn hay rởm. Với tôi, đó là một sự ví von
thâm sâu. Và tôi muốn nói thêm rằng: Để rồi vào những
ngày nắng ấm, thay vì tắm mình hưởng ánh nắng trong
đang soi chiếu vùng biển êm, mỹ ngư nhân trườn mình
lên tảng đá, chỉ có phần đuôi vẩy đưa vui chơi dưới
nước, còn mặt thì ngước nhìn về miền đất liền
phương đông, ngóng tìm, cất giọng hát ngậm ngùi nhớ
thương: Chiều nay có một người di tản buồn - Nhìn xa
xăm về quê hương rất xa - Chợt nghe tên Việt Nam ôi
thiết tha - Và rưng rưng lệ vương mắt nhạt nhòa... Bạn
ơi đó là người di tản buồn - Ngày ra đi lặng căm
trong đớn đau - Rồi đêm khuya về trong đôi mắt sâu -
Đời như chôn vào con phố u sầu... Cho tôi xin lại một
ngày, ở nơi thành phố cũ - Cho tôi xin lại một đời,
một đời sống với quê hương - Cho tôi đi lại đoạn
đường, hàng cây vương dài bóng mát - Cho tôi an phận
ngàn đời, bên bờ đê vắng làng tôi...***
Tan
học, em muốn về nhà một mình, dọn dẹp nhà cửa, làm
bài, tập đàn, nghe nhạc, đọc sách... em muốn có thì
giờ cho riêng em. Chiều nay, theo lời khuyên của nhà văn
Nhất Hạnh trong đoản văn Bông Hồng Cài Áo, em chờ má
đi làm về, nhưng em không vào phòng má. Em chờ sau bữa
cơm chiều, khi má ngả mình nằm nghỉ ở góc-sô-pha. Em
sẽ ngồi sát bên má, gọi nhỏ: "Má ơi!" Má sẽ
ngưng đọc sách, hỏi: "Gì con?" Em sẽ nhìn má
thật lâu và thì thầm: "Má ơi, má có biết gì
không?" Má sẽ âu yếm nhìn em, hỏi: "Biết gì?"
Vẫn nhìn vào mắt má, vẫn giữ nụ cười trầm lặng,
em hỏi tiếp: "Má có biết là con thương má không?"
Không chờ má trả lời vì em biết má sẽ ôm vai em, nói
nhỏ: "Má biết, con gái cưng của má." Và sau đó
em đưa bài văn cho má đọc. Chắc chắn khi đọc xong, má
sẽ cười với vài giọt nước đọng nơi đuôi mắt và
mắng yêu em: "Ủa, má đâu có kể nhiều vậy, con nhỏ
có tài thêm hoa thêm lá, có tài chấm phá ghê ta ơi."
Em sẽ nói: "Tại vì theo con nghĩ, đây là mẩu chuyện
không hẳn riêng của má mà là của cả các dì, các cậu,
người Việt ở hải ngoại, và con cũng hiểu rằng dẫu
đang sống đời sống dư thừa vật chất, dư thừa tự
do nhưng người Việt hải ngoại mãi mãi vẫn là người
di tản buồn." *
Võ
Thị Điềm Đạm
Chú
thích:
*
Một vài từ ngữ, một vài câu văn được mượn từ bài
thơ Còn Một Chút Gì Để Nhớ của Vũ Hữu Định, đoản
văn Tôi Đi Học của Thanh Tịnh, đoản văn Bông Hồng Cài
Áo của Nhất Hạnh.
**
Xin Đời Một Nụ Cười - Nam Lộc
***
Người Di Tản Buồn - Nam Lộc