tranh Nguyễn văn Bảy |
Má
ơi ! Đừng gả con xa.
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu...
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu...
Câu
chuyện xảy ra tại rạch Bình Thủy, làng Long Tuyền, tỉnh
Cần Thơ, đâu cũng vào khoảng năm 1939 hoặc 1940 gì đó.
Trời sáng trăng. Thường lệ cứ đến chín giờ tối là nhà ông hương Cả Ba đóng cửa ngủ sớm. Đêm ấy, có khác. Cây đèn "măng sông" cất lâu trong tủ được đem ra lau chùi, đốt sáng lên. Ông Cả nheo mắt, nhìn đăm đăm ra sân tìm một góc tối om nào đó mà định thần hòng gỡ mối tơ vò rối rắm của gia đình. Ngoài sân, trăng sáng yên lành ; lớp thủy ngân xao động, nhảy nhót, gờn gợn trên lá trên cành của vườn cam, trên ngọn tre mềm dịu đang chuyển động từng cơn.
Trời sáng trăng. Thường lệ cứ đến chín giờ tối là nhà ông hương Cả Ba đóng cửa ngủ sớm. Đêm ấy, có khác. Cây đèn "măng sông" cất lâu trong tủ được đem ra lau chùi, đốt sáng lên. Ông Cả nheo mắt, nhìn đăm đăm ra sân tìm một góc tối om nào đó mà định thần hòng gỡ mối tơ vò rối rắm của gia đình. Ngoài sân, trăng sáng yên lành ; lớp thủy ngân xao động, nhảy nhót, gờn gợn trên lá trên cành của vườn cam, trên ngọn tre mềm dịu đang chuyển động từng cơn.
Ông lẩm
bẩm :
- Kìa...
mà gió trở ngọn. Gió chướng qua gió nồm. Hết nắng
sang mưa.
Bà Cả
lắc đầu :
- Ông
này vớ vẩn. Gả con Út hay là không ? Sáng mai mình phải
trả lời cho cậu Quỳnh biết. Ở đó mà lo gió chướng,
gió nồm! Hai đứa nó đâu rồi ?
- Tụi
nó ở ngoài sân nói chuyện rù rì, bà không nghe sao ? Thế
nào tôi với bà cũng tính cho xong xuôi nội đêm nay.
"Tính"
đây là cả một bài toán. Làm thế nào có lợi cho gia
đình mình ? Gả cô Út cho cậu Quỳnh, ông bà rất đỗi
vui mừng vì gặp nơi môn đăng hộ đối. Nhưng về mặt
tình cảm thì thiệt thòi quá. Gả con gái về chốn Cạnh
Đền xa xăm ! Tháng trước, ông xuống đó để dò xét
thân thế gia đình của đàng trai : căn nhà ngói vách ván,
xung quanh có vườn tược lai rai, xa xa nhô lên vài nhà của
người Miên. Và rừng xanh một dãy che phủ tứ phía chân
trời !
Ông đáp
:
- Tôi
nhứt định gả. Hai đứa nó thương nhau từ hồi còn đi
học ở Sài Gòn. Bên đàng trai khá giả. Mình đòi bắt
rể, ai mà chịu. Thôi đành vậy...
Bà Cả
thở dài :
- Tôi
ngại quá. Mình có mụn con gái. Gả đi xa xôi không nói
làm gì. Ngặt xứ đó kỳ quái, hiểm nguy. Nội cái tên
Cạnh Đền nghe cũng dị hợm...
- Tưởng
bà ngại điều gì chớ chuyện đó thì dễ. Dân ở dưới
hiền lành lắm. Bộ thiên hạ ăn thịt con gái mình sao mà
nguy hiểm?
- Tức
chết đi ! Nói vậy mà không hiểu ! Ông không nghe người
ta hát sao ?
Xứ
đâu hơn xứ Cạnh Đền,
Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh.
Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh.
Ông Cả
nghe qua, cười ngất hồi lâu. Bà Cả càng sôi gan :
- Ông
cười tôi nói bậy à ? Ở xứ đó chạng vạng là ai nấy
phải vô mùng để... ăn cơm
- Nhưng
sự thật là họ ăn cơm sớm, hồi cỡ bốn giờ chiều
để khỏi cần vô mùng. Bà nghe ai nói lại vậy ?
- Ông có
tài binh vực cho xứ Cạnh Đền. Dẹp chuyện muỗi một
bên, tôi bàn qua chuyện đỉa để ông có giỏi thì cãi.
Nè, tôi nghe nói... phen đó cô dâu nọ ở chợ Cần Thơ
gả xuống. Cổ xuống bến làm cá, xong xuôi đem trút vô
chảo, nấu canh chua. Dè đâu chừng con đỉa đeo trong khứa
cá. Cô dâu nọ bị đuổi vì tội... nấu canh chua bằng
đỉa. Oan ức quá. Xứ đỉa nhiều, đâu ai dè trước !
Tôi sợ con Út nhà mình phải bị đuổi trở về mà mang
nhục với xóm riềng.
Ông Cả
cười dòn :
- Thiên
hạ đồn nhưng có thiệt lần nào chưa ? Tôi nói cho bà
nghe : chuyện đó dóc. Hồi xuống Cạnh Đền, tôi nhắc
chuyện... "đỉa lềnh như bánh canh". Thiên hạ ở
dưới đó cắt nghĩa : Cạnh Đền là nơi nước mặn gần
mãn năm. Hơn nữa, ruộng ít khi cày trâu. Làm sao có đỉa
ở vùng nước mặn ? Chẳng qua là mấy người đặt bài
hát đưa em, thêm nhưn thêm nhụy để bắt vần. Đỉa
nhiều ở là xứ nước ngọt như Bình Thủy, Ô Môn đây
nè ! Bà biết chưa. Ở đây, từ hồi nào tới giờ, có
ai lỡ nấu canh chua đỉa không ? Bà chỉ cho tôi coi thử.
Bà Cả
đuối lý, cố suy nghĩ, tìm cách bảo thủ ý kiến của
mình.
Sau rốt,
bà nói :
- Gả
con về rừng khổ lắm. Xưa nay, người ta hát :
Mẹ
mong gả thiếp về vườn,
Ăn bông bí rợ dưa hường nấu canh.
Ăn bông bí rợ dưa hường nấu canh.
"Đằng
này mình gả con về rừng... Bao nhiêu người chịu tai nạn
đó rồi".
Ông Cả
hút điều thuốc, chập sau mỉm cười, đắc thắng. Bà
day lại :
- Ông gả
thì gả đi. Đường xá xa xôi làm sao nó về thăm mình
được. Nãy giờ tôi quên nói chuyện đó.
- Dễ
ợt. Miễn con gái của mình có hiếu... Gả con... ở trong
nước Việt Nam chờ qua bên Tây bên Tàu gì sao ! Một khi
quên cha quên mẹ thì dầu ở kế bên nhà nó cũng không
thèm về thăm. Tôi thì tôi tin con Út lắm. Công cha mẹ
nuôi dưỡng, cho đi ăn học lẽ nào nó quên.
Bà Cả
bỏ đi chỗ khác, nói lại một câu :
- Để
coi nó nhớ hay quên ! Xuống miệt Cạnh Đền, muỗi ăn
thịt nó. Nó bỏ thây ở dưới, hai ba năm chưa chắc về
thăm mình được một lần. Lần hồi mất gốc rễ, nó
nhè lấy tên mình, đặt trùng lại cho con cháu của nó mà
không hay.
- Tại
sao vậy ? Bà này vô lý quá...
Tuy cãi
lời bà, trong thâm tâm ông cảm thấy chút gì buồn bực
đuối lý. "Ông có lý luận đúng, nhưng bà... không
lẽ nói sai". Nghĩ vậy, ông lại nằm nơi ghế trường
kỷ, lẩm bẩm :
- Ông Tơ
xếp đặt rồi. Phận con Út vậy đành vậy.
Thế là
tháng chạp năm đó, nhà ông Cả treo bông kết tuội để
gả con, giữa tiếng dị nghị của bao chàng trai tơ ở
rạch Bình Thủy.
***
Cô Út
về làm dâu đất Cạnh Đền.
Hai năm
qua.
Ba năm qua...
Ba năm qua...
Chuyến
đầu, đôi vợ chồng về thăm ông Cả bà Cả, đèo theo
một đứa con gái nhỏ... sổ sữa dễ thương.
Chuyến
sau họ về, lại thêm một đứa gái. và một đứa thứ
ba nữa đang nằm trong bụng mẹ.
Hai ông
bà quá đỗi vui mừng.
Nhưng
liên tiếp mấy năm sau họ bặt tin, ngày Tết ngày giỗ
cũng chẳng về. Lo ngại quá ! Có chuyện gì xảy ra bất
lành không?
Hai ông
bà muốn xuống Cạnh Đền thăm con nhưng ngại mình già
sức yếu, đường xa xôi, phải vượt qua sông Cái Lớn.
Nằm đêm, lắm khi bà khóc lóc mà trách ông :
- Tôi
nói muỗi rừng ăn thịt hai đứa nó rồi. Xứ gì mà muỗi
kêu như sáo thổi. Không đau bịnh rét thì cũng chói nước
lớn bụng mà chết... Hồi đó ông cãi tôi, nhớ không ?
Ông Cả
vô cùng buồn bực. Nhứt là khi nghe con nít chòm xóm hát
đưa em :
Má ơi
đừng gả con xa,
Chim kêu vượn hú, biết nhà má đâu ?
Chim kêu vượn hú, biết nhà má đâu ?
hoặc :
Thương
chồng phải lụy cùng chồng,
Đắng cay phải chịu , mặn nồng phải theo
Đắng cay phải chịu , mặn nồng phải theo
Mỗi khi
tiết trời lập đông là cơ thể rêm nhức, tuổi già của
ông càng đè nặng hai vai. Não nuột quá những câu hát :
Một
mai ai đứng bên kinh,
Ai phò giá triệu, ai rinh quan tài ?
Ai phò giá triệu, ai rinh quan tài ?
Bên
kinh đã có con trai,
Giá triệu con gái, quan tài nàng dâu
Hỏi nào chàng rể ở đâu ?
Chàng rể uống rượu đi sau nói xàm...
Giá triệu con gái, quan tài nàng dâu
Hỏi nào chàng rể ở đâu ?
Chàng rể uống rượu đi sau nói xàm...
Ông nhìn
trời. Ngày nào đó ông chết, con gái không về kịp để
phò giá triệu, càng không có chàng rể. Nhưng ông tin
tưởng rằng đứa rể của ông ở vùng Cạnh Đền xa xôi
kia, giờ phút này đang cặm cụi làm ăn nhớ cha mẹ vợ,
không bao giờ uống rượu nói xàm vì chàng là kẻ có ăn
học. Suốt tháng ngày, ông chống gậy đi quanh quẩn bên
gốc tre già ở mé sông, mắt mòn mỏi nhìn bóng dáng các
ghe thương hồ qua lại.
Trời
đất nào phụ kẻ có lòng như ông !
Mãi đến
buổi trưa đó, có chiếc ghe chèo chậm chậm ngang bến.
Chồng trước mũi hỏi vợ sau lái :
- Phải
chỗ cây mù u này không ? Cậu Quỳnh nói nhà bên vợ ở
đâu đây.
Chị vợ
đáp :
- Không
chừng... Đúng quá, cách ngã ba, qua hai cây cầu khỉ, nhà
ngói có vườn quít.
Anh chồng
ngó tới ngó lui, cãi lại :
- Mình
mới qua một cây cầu. Chèo tới trước chỗ cây cầu
khỉ, đằng kia kìa, họa may...
Ông Cả
cố gom tất cả sức già, la lớn :
- Ở đây
nè, bà con ơi ! Nhà vợ thằng Quỳnh ở đây nè...
Ghe đậu
lại. Hai vợ chồng nọ được mời lên ăn cơm với thịt
gà tại bộ ván gõ giữa nhà ông Hương cả. Trong đời,
họ chưa bao giờ được hân hạnh lớn như vậy ! Ông Cả,
bà Cả, người lối xóm xúm lại hỏi nhiều câu quá. Họ
bối rối, trả lời vắn tắt :
- Dạ,
vợ chồng cậu Quỳnh mạnh khỏe. Nhờ trời sanh được
sáu đứa con. Bốn đứa sau đều là con trai.
Bà Cả
mừng quýnh :
- Úy !
Bộ con Út đẻ năm một sao ? Con nhỏ đó thiệt ...
Khách
trả lời :
- Dạ,
đẻ năm một. Đứa ăn thôi nôi, đứa
lôi đầy tháng. Mẹ tròn con vuông.
Hồi tôi đi đây, cô Út gần nằm chỗ một lần nữa.
Thưa ông bà, miệt dưới ai cũng vậy. Như vợ chồng cháu
đây có tám đứa con.
- Sao vậy
cà ? Sao vậy cà ? Ở dưới cỡ này ra sao mà thiên hạ đẻ
nhiều quá vậy ?
Khách
ngượng nghịu, chập sau mới nói :
- Dạ ở
miệt dưới muỗi dữ lắm. Chạng vạng là cả nhà, vợ
chồng con cái rút vô mùng... nói chuyện. Ít ai đi đâu.
Ai nấy
phá lên cười to. Đến lúc bấy giờ, ông Cả bà Cả mới
hiểu thêm một sự bí mật quan trọng của tiếng "muỗi
kêu như sáo thổi" ở Cạnh Đền. Nó làm hại sức
khỏe con người. Nhưng nó gắn bó mối tình chồng vợ
hơn ở xứ không có muỗi.
Để
đánh trống lảng, ông nói :
- Ừ !
Phải vậy mới được. Xứ mình cần có dân đông để
tạo lập thêm ruộng vườn, khai phá đất hoang.
Bà Cả
nóng ruột :
- Anh chị
đây có nghe vợ chồng nó nhắn chừng nào đem mấy đứa
cháu ngoại của tôi về cho biết mặt ?
Khách
trả lời :
- Dạ
không nghe. Con cái lũ khũ cả bầy, chắc vợ chồng cậu
Quỳnh khó đi xa. Năm rồi mùa màng thất bát, ai cũng lo
tay làm hàm nhai để nuôi con. Sông Cái Lớn mấy năm nay
lại thêm sóng gió bất thường.
Bà thở
dài, nói như rên siết :
- Nhớ
mấy đứa nhỏ quá. Ông ơi ! Hồi đó ông cãi tôi...
Ông Cả
im lặng, nghĩ đến cái ngày gần đất xa trời của mình.
Nó không còn bao xa nữa. Ngày đó, ai phò giá triệu, ai
rinh quan tài ? Nhìn bụi tre già dưới bến mà ông tủi
thân : Măng non mọc kề bên gốc. Phận ông có khác ; con
gái, con rể và đám cháu ngoại ở chốn xa xôi kia làm
sao được gần gũi để ông thấy mặt lần đầu - và
cũng là lần chót - khi ông tàn hơi. Nước mắt muốn tươm
ra, ông cố dằn lại. Ông hiểu đời ông chưa tới mức
đen tối, còn chút ánh sáng lập lòe trong tương lai vô
biên vô tận :
- Ờ...
ở dưới nó có lập vườn chưa ? Lát nữa, anh chị chịu
khó chở về dùm cho vợ chống con Út một gốc tre Mạnh
Tông để làm giống. Chừng thấy măng non cận gốc già,
mấy đứa cháu của tôi luôn luôn nhớ ông ngoại bà
ngoại nó trên Bình Thủy.