tranh Nguyên Khai |
Sao
em thấy khu này ghê quá hở anh!”
“Em nói không
sai! Đây là khu chung cư mà vấn đề an ninh không mấy gì
gọi là sáng sủa, khả quan cho lắm! Khu chung cư mà hầu
hết người Á châu đều tránh xa, chứ chẳng riêng gì
người Việt Nam, ngoại trừ chỉ có anh mà thôi. Nhìn
ngang nhìn ngửa chỉ thấy toàn là Mỹ đen và người Mễ.
Chẳng sót đêm nào mà không có xe cảnh sát chạy tuần
tiễu, canh chừng ở quanh đây. Cách đây ba hôm, cảnh
sát mới hốt ở đây năm, sáu mạng có liên quan đến
vấn đề đĩ điếm và ma túy. Ban đêm, nhất là cuối
tuần, em sẽ thấy nhạc ráp trổi lên đinh tai, nhức óc
cùng tiếng vỏ chai ném loảng xoảng ngoài parking. Đôi
khi cao hứng, còn lôi cả súng ra bắn chỉ thiên nữa là
đằng khác.”
“Biết
vậy mà sao anh không dọn đi nơi khác!”
“Đi
đâu cũng chẳng bằng ở chỗ này! Vừa rẻ mà lại vừa
thoải mái. Đặc biệt nhất là chẳng khi nào nghe chủ
đề cập đến vấn đề tăng tiền nhà. Vả lại, anh
cũng chẳng thấy có điều gì đáng tiếc xảy ra! Thú
thật, hôm mới dọn đến, anh cũng cảm thấy hơi ơn ớn.
Nhưng ở riết rồi cũng thấy quen dần. Anh thì lúc nào
cũng chủ trương mềm mỏng, dĩ hòa vi quí. Mình
đừng có đụng chạm đến người khác thì được rồi.
Đấy là câu phương châm hữu hiệu nhất để mà sống.
Từ khi nghe tin anh dọn về đây, mấy ông bạn đều trợn
mắt kêu lên: Ông điên rồi hay sao! Thậm chí có ông
còn nói: Ông đúng là uống thuốc liều. Có ngày rồi
cũng toi mạng đấy ông ạ! Ấy thế mà tám năm trôi qua
rồi đấy. Đâu có chuyện gì xảy ra đâu! Anh vẫn bình
chân như vại, mà ngược lại, hầu hết mọi người ở
quanh đây đều tỏ ra có cảm tình đặc biệt đối với
anh. Thế mới lạ chứ.”
Người
đàn bà phá lên tiếng cười dòn:
“Anh
thì lúc nào cũng giống như kẻ chán đời.”
Người
đàn ông không nói, đứng lặng thinh, dõi mắt nhìn ra bên
ngoài. Tiếng gió đập nhẹ ngoài cửa kính. Tiếng rú
hốt hoảng của chiếc xe vừa chạy vụt qua, để lại
chuỗi âm thanh rền rã, dài dằng dặc, rồi tuần tự nhỏ
dần và lịm tắt ở mãi tận cuối đường.
Dưới
ánh sáng mát dịu của ngọn đèn nê ông, người đàn bà
ngồi thu mình trên chiếc ghế đệm khổ dài, thô kệch,
cũ kỹ đặt ở giữa phòng. Phía trong, sát chân tường,
là chiếc TV kịch cợm, lỗi thời, đã ngả màu, hoen ố
theo thời gian. Đối diện với bà ta là một chiếc bàn
gỗ thấp hình chữ nhật, và trên đó, lẻ loi có chai
rượu chát màu đỏ thẫm cùng hai chiếc ly đặt sẵn ở
gần đấy. Người đàn bà đứng tuổi, có mái tóc phủ
dài cùng khuôn mặt khả ái, sầu muộn. Bà ta sửa lại
thế ngồi cho ngay ngắn rồi nhỏ nhẹ:
“Em
thật không ngờ anh ạ! Cảm giác đầu tiên đến với
em là một sự bàng hoàng thì đúng hơn. Làm sao mà không
bàng hoàng, sửng sốt hở anh! Trước đây, ai nấy đều
đinh ninh rằng: Gia đình anh đã mất tích trên chiếc ghe
định mệnh ấy rồi. Người ta đồn, chuyến anh đi bị
bão lớn và cả chiếc ghe bị nhận chìm xuống đáy biển.
Thậm chí ngay đến người bà con xa của anh cũng quả
quyết với em như vậy. Rồi đùng một cái, thình lình
lại gặp anh ở bên đây, thử hỏi làm sao mà em không
giật mình được! Thú thật, ngay từ lúc đầu, chợt
thoáng trông thấy anh, em cứ ngờ ngợ mà không dám nhận!
Em liếc mắt nhìn trộm sang bàn của mãi. Đầu óc em
lúc bấy giờ, chỉ thấy toàn là những câu hỏi dồn dập
đổ về, bủa vây, chất vấn, vây kín ở tâm tư em! Em
tự hỏi thầm với chính mình: Không lý nào, anh lại
còn sống ở trên cõi đời này hay sao! Chính vì thế, em
đâm ra lưỡng lự, đắn đo, suy nghĩ đến gần cả tiếng
đồng hồ. Cuối cùng, thì em quả quyết, chắc chắn một
trăm phần trăm, chứ không còn nghi ngờ gì nữa! Lúc đó,
em mới mạnh dạn lên tiếng gọi anh.”
Người
đàn ông bóp trán ra chiều suy nghĩ. Mãi sau ông ta mới
hạ thấp giọng:
“Nhắc
đến cái chuyến đi ấy, cho đến bây giờ, thỉnh thoảng
chợt nghĩ lại, anh vẫn còn cảm thấy rùng mình, ớn
lạnh. Gần ba tuần lễ, thì kể như mất mười ngày
không có lương thực và nước uống. Chiếc ghe bị hư
máy, thả trôi trên giòng nước, cũng giống như con diều
bị đứt giây. Bao nhiêu tàu bè chạy ngang qua như mắc
cửi mà chẳng có chiếc nào chịu vớt. Mọi người trên
ghe la riết đến khan cả cuống họng. La chán rồi chẳng
còn ai thiết tha gì đến vụ kêu cứu nữa! Mà có còn
hơi sức nữa đâu mà kêu! Ai nấy đều rũ ra, mềm nhũn,
nằm thiêm thiếp, bất động trông y hệt như những cái
xác không hồn. Thế mới biết cơn đói nó hoành hành,
đầy đọa, dày vò thể xác con người ta đến chừng
nào. Nếu không có cơn bão thì bọn anh cũng chẳng có cơ
hội đặt chân lên chiếc tàu buôn của người Đức.
Anh vẫn còn nhớ, lúc ấy vào khoảng năm giờ chiều của
ngày thứ mười tám. Chỉ cần chậm trễ thêm vài ba
tiếng đồng hồ nữa, thì toàn thể năm mươi mấy người,
kể cả nam lẫn nữ cùng trẻ em đều trở thành miếng
mồi ngon cho cá biển.”
“Sao
cơn bão đến nhanh quá anh nhỉ!”
“Nhanh
đến nỗi mà anh không thể nào ngờ được! Cơn giông
bão ồ ạt kéo đến thật dữ dằn, thật khủng khiếp,
thì thử hỏi: Đêm hôm đó làm sao mà tụi anh có thể
chống đỡ nổi!”
Người
đàn bà nheo mắt, nhún vai tỏ vẻ sợ hãi:
“Eo
ơi! Cũng may anh nhỉ!”
Người
đàn ông không nói, chăm chú, dán mắt nhìn vào khoảng
trống vô nghĩa trước mặt.
“Thế
chuyến đó có bị mất mát người nào không anh!”
“Có!
Rất may là chỉ có một người. Hắn ta còn rất trẻ.
Độ chừng hai mươi hai hoặc hai mươi ba tuổi là cùng.
Gương mặt hắn lúc nào cũng tỏ ra lầm lì, ít nói.
Nguyên nhân dẫn đến cái chết nói trên, cũng chỉ vì
quá tuyệt vọng, khiến cho hắn ta bị khủng hoảng, quẫn
trí, rồi đâm ra liều lĩnh, ôm cái can bằng ni lông, nhảy
xuống biển với hy vọng sẽ được tàu vớt. Nhưng anh
tin chắc rằng, sớm muộn gì rồi hắn ta cũng sẽ chết.
Hắn chết đi là cả một đề tài nóng bỏng, khiến cho
ai nấy đều bàn tán xôn xao và cho rằng: Nhờ hắn ta
linh thiêng, phù trợ nên mọi người mới được cứu
thoát.”
“Cũng
có thể lắm chứ anh!”
Người
đàn ông trầm ngâm lúc lâu mới lên tiếng:
“Ở
đời đâu có ai biết được chữ ngờ hở em! Ngay như
anh em mình cũng vậy. Có khi nào mà chúng ta nghĩ đến
ngày hội ngộ hôm nay. Trước đây, tâm trạng của những
kẻ bỏ nước ra đi, chẳng khi nào nghĩ rằng, rồi sẽ
có một ngày trở về thăm lại quê hương. Nghĩ lại
thật có nhiều chuyện buồn cười. Như mấy ông Cộng
Sản cũng thế. Sau năm bảy mươi lăm, mấy ông ấy cứ
gay gắt lên án, kết tội nặng nề đế quốc Mỹ, thì
bây giờ lại tỏ ra ve vãn, chào đón giống như một
thượng khách. Còn mấy ông tướng, ông tá trước đây
thuộc loại ăn trên ngồi chóc ở miền Nam, hớt hải bỏ
cả đơn vị, bỏ cả binh sĩ thuộc quyền, chạy bán
sống, bán chết sang bên đây, còn tỏ ra huênh hoang, khoe
khoang về thành tích chiến đấu của mình trước kia. Có
ông còn hăng say, hô hào đấu tranh để quang phục quê
hương. Thế mới lạ chứ.”
Như
chợt nhớ ra điều gì, ông ta cất cao giọng:
“À!
Còn Thoại, chồng em. Anh nghe nói, hình như nó chẳng còn
người nào thân thích. Phải không em! Như vậy thì đâu
có ai tới lui thăm viếng, chăm sóc cũng như lo việc hương
khói cho nó.”
Người
đàn bà ngước lên:
“Ngoài
em ra, chứ còn ai vào đấy nữa hở anh!”
“Anh
cứ tưởng, thể nào em cũng bước thêm bước nữa! Vả
lại, Thoại mất cũng khá lâu. Trong khi đó, em còn quá
trẻ, lại còn có nhan sắc, thì làm sao mà có thể ở vậy
suốt đời được!”
Người
đàn bà mỉm cười, ra chiều đắc ý:
“Ấy
thế mà em vẫn chỉ có một mình, chứ đâu có hai ba mình
gì đâu!”
“Kể
cũng lạ thật! Bây giờ em sang đây thì lấy ai ra mà lo
cái công việc ấy!”
“Thì
cũng đành vậy thôi! Trước khi đi em có nhờ vài người
bạn thân, thỉnh thoảng nhớ ra thắp nhang và dọn dẹp
dùm em. Em tính sau này làm lụng có tiền, em sẽ về thuê
người ta bốc lên, đem thiêu rồi đưa vào chùa, có
hương, có khói và tối sớm còn được nghe kinh kệ nữa.
Như vậy vừa được ấm áp mà lại còn dễ siêu thoát
hơn.”
“Em
tính như vậy cũng phải.”
Im
lặng. Không khí trong phòng chợt chìm xuống sự im lặng
lạ thường. Thứ im lặng khô cứng, đặc quánh, giống
như không khí trầm mặc của giáo đường vào buổi trưa
đầu tuần hoang vắng. Bất chợt, anh liên tưởng đến
ngôi mộ vắng chủ cô quạnh, hiu hắt. Ngôi mộ tẻ
nhạt, lạnh lẽo gần như bị bỏ quên. Nghĩ đến đấy,
tự nhiên anh thấy gợn nhăn lên nỗi xót xa, tê tái ở
trong lòng.
“Hà
sang đây lâu chưa!” Anh buột miệng.
“Mới
đây thôi anh ạ.”
“Em
thấy bên này ra sao!”
“Bên
đây thì buồn là cái chắc. Nhưng ngược lại, đời
sống thì sướng hơn ở Viêt Nam.”
“Anh
nghe nói, đời sống ở bên đấy bây giờ cũng dễ thở
lắm cơ mà. Chánh sách mở cửa của nhà nước đã đưa
mức sống của người dân có phần cao hơn trước đây
nhiều.”
Người
đàn bà bật lên tiếng cười khẩy:
“Anh
đừng có tin vào mấy ông này, anh Toàn ạ! Anh nên nhớ
rằng: Tuyên truyền là cái ngón nghề của mấy ông ấy
hay sao! Em thấy ở ngoài này vẫn còn nhiều người tỏ
ra ngây thơ, tin vào những điều mà mấy ông ấy nói.
Thế nào gọi là dễ thở! Thế nào gọi là khởi sắc!
Dễ thở là đối với giới con ông cháu cha có thế lực
kìa. Giới buôn bán hoặc có thân nhân ở nước ngoài
cơ. Còn về phía dân nghèo thì vẫn tồi tệ như xưa.
Anh thử tưởng tượng xem, đứa con gái mới mười bốn,
mười lăm tuổi, không bà con thân thuộc, lạc lõng, trôi
dạt từ miền Bắc vào Sài Gòn kiếm sống. Ở vào cái
tuổi ấy, thì làm sao mà có đủ trí khôn, đủ bản lãnh
để vượt qua mọi cạm bẫy của những tên ma cô, những
đầu nậu thuộc các tổ chức buôn người đưa ra nước
ngoài. Sau mấy năm gần đây, người miền Bắc đổ xô
vào Sài Gòn lập nghiệp rất đông. Vì thế mà dân số
tại thành phố này gia tăng rất nhanh. Còn mấy ông nhà
nước thì chỉ biết hà hiếp, bóc lột, sống trên mồ
hôi, xưong máu của kẻ khác. Nhiều người phải bán
máu, bán con để mà sống. Anh thử hỏi: Cái xã hội
như thế thì làm sao mà sống được! Tình trạng luân lý
bị đảo lộn, suy đồi. Người ta bây giờ không còn ai
nghĩ đến hai chữ nhân phẩm cũng như hai chữ sĩ diện
nữa! Chung qui cũng chỉ vì đồng tiền, vì miếng ăn mà
thôi.”
“Hiện
giờ thì em đang sống ở đâu!”
“Tạm
thời em đang ở với gia đình của đứa em gái dưới
Pomona. Hôm nay vợ chồng nó đi chơi xa. Còn lại một
mình buồn quá. Nhân tiện có chị bạn lại chơi, rủ em
xuống đây đi ăn uống, rồi sau đó chui vào vũ trường
nghe nhạc, không ngờ lại gặp anh ở trong đấy. Anh còn
nhớ con Thu không! Con nhỏ mũm mĩm để tóc ngắn đấy.
Nó vượt biên sang đây lâu lắm rồi. Chính nó đứng ra
bảo lãnh cho em. Thoạt đầu, em cứ đắn đo, chần chờ
mãi! Bởi vì như anh cũng biết, mọi chi phí từ vé máy
bay cho đến bảo hiểm sức khỏe, nó đều phải đưa vai
ra gánh chịu hết. Em trằn trọc. suy nghĩ suốt mấy đêm
liền. Cuối cùng em mới chợt nghĩ lại: Nếu không đi
thì sau này lấy ai ra mà nuôi mình! Năm mươi mấy tuổi
đầu rồi còn gì nữa! Vả lại, em sống cô quạnh chỉ
có một mình. Bây giờ ở tuổi này thì khả dĩ còn tự
săn sóc cho mình được! Nhưng đến mai mốt thêm dăm ba
tuổi nữa thì biết tính sao! Nghĩ đến đấy em mới
giật mình, hoảng hốt rồi quyết định một cách dứt
khoát là ra đi. Chỉ có ra đi là thượng sách. Chỉ có
ra đi mới trút bỏ được những lam lũ, những khổ cực
trong đời sống. Trong khi mình có cơ hội ở trong tay,
thì tại sao lại không đi hở anh! Dù sao đi chăng nữa,
đời sống trên đất Mỹ cũng sướng hơn ở Việt Nam
gấp bội phần. Thiếu gì người muốn đi mà còn không
được! Phải không anh!”
Người
đàn ông di nhẹ gót chân xuống nền nhà.
“Trước
đây anh cứ tưởng em có con với Thoại. Hóa ra em chẳng
có đứa nào cả!”
Ngẫm
nghĩ giây lát, Hà lên tiếng hỏi:
“Còn
anh thì sao!”
“Anh
vẫn vậy.”
“Không!
Ý của em muốn hỏi về chị cùng các cháu.”
“À!
Em muốn hỏi về chị Loan. Anh và chị ấy đã ly dị
ngót sáu năm nay. Còn mấy đứa con thì đứa nào cũng
lớn khôn hết cả rồi. Chúng nó đều lập gia đình và
đã ra ở riêng hết. Ở Mỹ mà! Chúng nó có khi nào ở
chung với mình đâu! Vì thế, tối sớm anh chỉ lủi thủi
có một mình. Lâu lâu hoặc lễ lậy, chúng nó đáo ngang
qua thăm bố vài ba tiếng đồng hồ rồi lại đi.”
“Kể
ra thì cũng buồn anh nhỉ!”
“Riết
rồi cũng thấy quen. Vả lại, đời sống cứ quay vù vù
chẳng khác nào cái chong chóng, khiến cho mình nhiều lúc
cũng chẳng có thì giờ để mà suy nghĩ.”
“Em
thấy ngày xưa anh chị khắn khít với nhau lắm cơ mà.”
“Ngày
xưa khác, còn bây giờ khác. Ngày xưa, đời sống bị
đóng khung trong bối cảnh của xã hội Viêt Nam. Còn sang
bên đây thì mọi thứ đều thay đổi. Người đàn bà
bắt đầu đi làm và giao tế, hòa nhập với xã hội ở
bên ngoài. Từ đó, sự suy nghĩ cùng cái nhìn có phần
thay đổi, khác hơn. Chẳng riêng gì gia đình anh, mà phần
đông các gia đình khác đều rơi vào cái tình trạng đó.
Nhiều người đàn bà trước kia tỏ ra hiền hậu, nhưng
sang đến bên đây thì tự nhiên đâm ra đổi tính, rồi
sinh ra chuyện này, chuyện khác và cuối cùng thì đi tới
quyết định là đường ai nấy đi. Xét cho cùng thì đời
người ai nấy đều có số phần hết. Anh chẳng bao giờ
tỏ ra thái độ trách cứ gì Loan cả! Tại cái số của
mình như thế thì phải chịu vậy thôi, chứ biết nói
sao bây giờ!”
“Từ
ngày ấy đến giờ, có khi nào chị về thăm anh không!”
“Chẳng
bao giờ! Ly dị xong thì họ cũng giống như con chim xổ
lồng, bay đến một nơi thật xa, chứ đâu có còn thì
giờ mà nghĩ đến chuyện thăm hỏi làm gì!”
Toàn
nói xong, cất giọng cười ngất. Nụ cười chua chát,
tiềm ẩn nỗi đắng cay, tê tái ở trong lòng. Hà ngước
lên thành khẩn:
“Anh
cho em xin lỗi. Vì quá tò mò nên nhắc đến chuyện buồn
của anh. Mong anh bỏ qua cho em.”
Toàn
xua tay, uể oải rời khỏi khung cửa rồi tiến lại ngồi
xuống ở đầu ghế.
“Anh
dùng tạm một ly cho khuây khỏa nhé!”
Toàn
lấy giọng tự nhiên:
“Em
cho anh một ly. Cả em nữa. Chúng ta mừng gặp lại.”
Bằng
động tác thật khoan thai, Hà nâng chai rượu, nhẹ nhàng
rót vào hai cái ly thủy tinh trong vắt rồi đẩy sang cho
Toàn:
“Nào!
Mời anh! Chúng ta mừng gặp lại nhau trên xứ người.”
Hai
người nâng ly rượu lên môi rồi ngửa cổ uống cạn.
Chờ cho hơi men thấm dần vào cơ thể, Toàn quay sang nhìn
đăm đăm vào người Hà:
“Em
vẫn còn đẹp như ngày nào.”
Hà
hóm hỉnh:
“Anh
dạo này lại biết nói đùa nữa cơ à! Già khú rồi còn
gì nữa!”
“Già
thì già! Nhưng nó vẫn có cái đẹp riêng của nó chứ.”
Bất
giác, Toàn cất nhẹ lên tiếng thở dài:
“Chóng
thật! Mới đấy mà bây giờ tất cả đều già hết cả
rồi. Thế mới biết đời người chẳng khác nào cơn
gió thoảng em nhỉ! Ngẫm cho kỹ lại thì mấy cụ mình
ngày xưa nói chẳng sai tý nào.”
“Ngày
xưa mấy cụ đều là nhà nho thâm trầm, uyên bác. Mà
nhà nho nói ra chẳng khác nào như mũi gươm nhọn khắc
hằn lên phiến đá. Nhắc đến mấy cụ là nhắc đến
tấm gương sáng của người xưa để lại cho đời sau
soi mặt. Nhiều lúc nhìn lại, mới thấy nuối tiếc cái
tuổi thanh xuân. Em vẫn còn nhớ, dạo ấy anh đạo mạo
lắm cơ mà! Đúng là nhà giáo có khác. Mẫu mực và
nghiêm nghị. Mấy đứa nhỏ ở trong xóm học anh, chúng
nó bảo anh khó lắm. Chúng nó còn nói, chẳng thấy khi
nào anh cười! Anh có biết, chúng nó đặt cho anh cái
danh hiệu gì không!”
Người
đàn ông lắc đầu, Hà liến thoắng:
“Chúng
nó bảo anh là thằng cha hắc ám.”
Nghĩ
ngợi giây lát, nàng kể lể:
“Dạo
ấy, em với Thoại mới bắt đầu yêu nhau. Yêu say mê.
Yêu cuồng nhiệt anh ạ. Ngày nào mà tụi em chẳng gặp
nhau. Ngày nào mà chẳng hẹn hò. Hẹn hò riết rồi
chẳng biết nói gì với nhau. Ngôn ngữ của tình yêu
nhiều khi nó trở thành ngớ ngẩn anh nhỉ! Anh không
biết đâu! Mẹ em ngăn cấm em nhiều lắm đấy. Cấm
mãi mà vẫn chẳng thấy có kết quả. Mẹ em liền đổi
sang chiến thuật tình cảm. Bà tỏ ra mềm mỏng, dạy
dỗ, khuyên bảo em đủ điều, mà em vẫn chẳng hề lay
chuyển. Tức quá, bà bảo em là đứa con cứng đầu,
không biết vâng lời cha mẹ. Bà còn gán ghép cho em cái
tội bất hiếu nữa chứ! Em thấy mình chẳng có tội
tình gì cả! Tính nhẩm, có đến cả năm, sáu đám, cậy
nhờ người mai mối, đến dạm hỏi, nhưng em vẫn một
mực khăng khăng chối từ. Trước thái độ kiên quyết
đó, mẹ em lại càng tức điên lên: Người ta đều là
con nhà nề nếp, gia giáo, hiền lành, tử tế mà mày vẫn
một mực không chịu! Mày cứ nhất định lấy cho bằng
được cái thằng Thoại. Coi cái mã ấy thì nó làm nên
được cái tích sự gì, mà mày cứ mê nó như điếu đổ,
hở cái con kia! Mẹ em đay nghiến em suốt từ ngày này
sang ngày khác. Bà còn cấm đoán không cho tụi em gặp
nhau! Cứ mỗi lần thấy anh ấy đi ngang qua nhà, thì y
như mẹ em lại tỏ ra thái độ giận dữ, tức bực, biểu
lộ qua các động tác mạnh bạo như đóng cửa hoặc la
rầy con cái chẳng hạn. Ngày đó em đã nảy sinh ra ý
định táo bạo, là bỏ nhà ra đi với Thoại. Em tính ra
đi thời gian ngắn rồi mới trở về, coi như gạo đã
nấu thành cơm, thì dù muốn dù không, buộc lòng mẹ em
cũng phải chịu thôi. Nào ngờ, Thoại lại tỏ ra quá
nhút nhát, không dám bỏ nhà ra đi với em. Anh ấy cứ
bảo: Mình chẳng có cái nghề nào trong tay thì biết làm
gì để mà sống! Bởi vì thế, mà ý định ấy bị dẹp
bỏ. Em nghĩ nát óc mà vẫn chẳng tìm ra được giải
pháp thỏa đáng nào khác. Mãi cho đến năm em thi rớt
phần hai. Mẹ bắt em phải lấy một ông sĩ quan hành
chánh quân y. Ông này phục vụ trong ngành quân y, chứ
không phải là bác sĩ. Ông ta khá đẹp trai mà gia đình
lại giàu có, ở mãi tận ngoài Nha Trang. Tính tình ông
này tỏ ra rất lịch thiệp và hào phóng. Kể ra dạo đó
mà lấy được ông chồng như thế thì tạm gọi là yên
thân. Thời chiến mà có tấm chồng phục vụ tại đơn
vị ở hậu tuyến thì kể như là người có diễm phúc.
Nhưng em cứ một mực từ chối không chịu. Mẹ em hết
mềm dẻo rồi lại trở sang cứng rắn. Có thể nói, lần
này bà tỏ ra quyết liệt hơn. Nguyên nhân chính, cũng
chỉ vì má ông này là bạn học của mẹ em trước kia.
Mẹ em làm dữ lắm. Lúc nào bà cũng tỏ ra hằn học đối
với em. Tình trạng căng thẳng ấy kéo dài mãi cho đến
khi cô em có dịp từ Đà Lạt về chơi, biết chưyện,
mới ngỏ lời khuyên giải me em. Theo lời đứa em gái em
nghe lóm được, kể lại:
“ Chị làm riết khiến nó
quẫn trí, rồi đâm ra dại dột, liều lĩnh quyên sinh thì
chết. Chớ! Chị đừng có ép nó vào đường cùng thì
nguy đấy. Con trai, con gái thời bây giờ thì khác với
cái tuổi của chị em mình trước kia. Ngày xưa, bố mẹ
đặt ở đâu, thì mình không được phép cưỡng lại, mà
phải ngoan ngoãn ngồi ở vị trí đấy. Còn bây giờ thì
không được đâu chị ạ! Chúng ta không thể áp dụng
giống như ngày xưa được! Làm bố mẹ ngày hôm nay thì
khó khăn gấp vạn lần so với ngày trước. Nó đòi hỏi
bậc làm cha mẹ phải hiểu được tâm lý của con cái
mình muốn gì! Tốt hơn hết, chị cứ để cho cháu có
cái quyền tự do định đoạt. Trong thì nó nhờ, mà đục
thì nó ráng chịu. Ngộ nhỡ sau này, nếu có chuyện gì
xảy ra, thì nó cũng chẳng có lý do gì để oán trách
mình được! Cô em nói nhiều lắm, nên mẹ em mới xiêu
lòng, chứ không thì bà cứ ghìm em mãi. Hôm đám cưới
tụi em, bà vẫn tỏ ra vui vẻ với tất cả mọi người
ở chung quanh, nhưng nếu nhìn kỹ trên sắc diện của mẹ
em, thì sẽ thấy bà không mấy gì được vui cho lắm! Em
biết, mẹ em không ưa gì anh Thoại! Anh ấy chỉ là một
anh công chức quèn. Học hành thì xoàng xĩnh chẳng đi
tới đâu, mà gia đình thì lại không lấy gì gọi là khá
giả cho lắm. Đấy chính là hai yếu tố then chốt khiến
cho mẹ em không được hài lòng. Rốt cuộc rồi cũng
xong. Tụi em chung sống với nhau tròn trĩnh vừa đúng năm
năm, mà chẳng có đứa con nào ra đời. Rồi, đột nhiên
Thoại ngã bệnh và ra đi. Em buồn quá, chẳng khác nào
như một kẻ chán đời. Mà chán thật chứ anh! Nhiều
người cứ tưởng rằng, dần dà rồi thời gian sẽ nguôi
ngoai và thể nào em cũng bước thêm bước nữa! Nhưng,
thật tình không ngờ anh ạ! Đến ngay mẹ em cũng phải
sốt ruột kêu lên: Mày tính ở vậy cho đến mãn đời
hay sao, hở Hà! Em chẳng nói gì cả! Tự nhiên em cảm
thấy dửng dưng, chẳng còn tha thiết hoặc ham muốn gì
nữa! Mặc dù dạo ấy cũng có khối ông theo đuổi, săn
đón em. Nhưng trước cử chỉ cùng thái độ lạnh nhạt
của chính em, khiến họ cũng đâm ra chán nản rồi từ
từ dãn xa dần. Em chẳng hiểu tại sao cả! Ngay chính
em cũng chẳng hiểu nổi về con người thật của em! Có
thể, theo như anh nói, đời người ai nấy đều có số
cả. Căn cứ theo như lời me em thuật lại, thì hồi em
còn nhỏ, có ông thày tướng số coi cho em. Ông ấy bảo:
Số con bé này lớn lên sẽ đội tang chồng ở cái tuổi
thanh xuân, và càng về già thì cô quạnh chỉ có một
mình. Em nghiệm lại thì quả thật thấy đúng một phần
rồi đấy anh!”“Thế em có tính gì không!”
“Em mới sang đây, nên đường xá còn mù tịt, mà xe cộ thì lại chưa biết lái. Em chỉ mong rằng, sau khi lấy được cái bằng lái xe, tạm thời, ban ngày em ra shop may làm để lấy tiền chi dụng cho hàng tháng. Còn ban đêm, em sẽ cố gắng đi học thêm về Anh ngữ để chuẩn bị cho bước đường kế tiếp, đó là giai đoạn học nghề. Em nhất quyết phải học thêm cái nghề để tự nuôi sống lấy bản thân mình. Anh thấy em tính như vậy có được không! Chứ con bạn em thì nó cứ dục: Mày nên học cái nghề nail đi, để sau khi có được cái licence ở trong tay, tao với mày sẽ bay sang tiểu bang khác để làm ăn. Nó còn nói: Mình phải ráng chịu khó thêm vài ba năm nữa, để kiếm số vốn khả dĩ rồi hãy quay trở lại đây, chuyển sang nghề khác để làm ăn.”
“Bước đầu thì ai nấy cũng vậy. Nhưng dần dà rồi cũng sẽ qua đi. Bên đây thì đời sống khác hẳn với quê nhà. Vì thế, nó đòi hỏi mình phải có sự kiên trì ở trong đấy.”
Bên ngoài, gió bắt đầu thổi mạnh hơn. Dự báo thời tiết ngày hôm qua cho biết đêm nay sẽ có bão lớn. Tiếng gió rít xoáy lên từng cơn, quật mạnh trên các tàng cây ngoài hiên nhà, kéo theo những ánh chớp dồn dập lóe lên tận ngoài xa, như báo hiệu cơn mưa sắp kéo đến. Toàn lẩm bẩm:
“Trời sắp mưa rồi.”
Dáo dác nhìn chung quanh, Hà bỗng kêu lên:
“Ấy chết! Gần ba giờ sáng rồi đấy anh!”
Toàn ôn tồn:
“Thôi! Đi ngủ đi em. Khuya lắm rồi. Mải nói chuyện nên chẳng để ý gì đến giờ giấc. Sáng mai, anh đưa em đi ăn, rồi đến chiều anh sẽ chở em về dưới đó.”
“Em làm phiền anh nhiều quá.”
“Có gì đâu mà phiền! Chỗ anh em với nhau mà!”
Ngừng lại vài giây, anh dơ tay chỉ vào phía trong:
“Em vào phòng anh mà ngủ. Trong ấy có đầy đủ hết. Có rest room và bàn chải đánh răng cùng mấy bộ đồ ngủ còn mới toanh, chưa ai đụng tới. Em cứ tự nhiên coi như ở nhà. Đừng có ngần ngại gì cả.”
“Anh để cho em nằm ở ngoài này cũng được.”
“Em là đàn bà, con gái, đâu có thể để nằm ở ngoài này được! Nhỡ mai mốt vợ chồng Thu biết chuyện, rồi tụi nó sẽ đánh giá thế nào về con người của anh! Thôi! Vào trong ấy ngủ dùm tôi đi cô.”
Hà liếc mắt nhìn sang Toàn khẽ mỉm cười, rồi từ từ đứng dạy, khoan thai tiến dần vào phía trong. Tới cửa phòng, nàng còn ngoái lại:
“Gớm! Bao nhiêu năm không gặp, anh bây giờ cũng ghê đáo để.”
Chờ cho Hà vào đến tận bên trong và cánh cửa phòng ngủ tư từ khép lại, Toàn rướn người, vươn tay bấm nhẹ vào cái công tắc điện gắn ở gần đấy. Ánh sáng chợt phụt tắt và bóng tối bắt đầu ngự trị, lên ngôi. Anh lưỡng lự giây lát rồi ngả lưng nằm xuống. Có tiếng sấm đì đùng, gầm thét ở đằng xa và cơn mưa bắt đầu ào ạt kéo đến như muốn cuốn phăng đi mọi rác rưởi, bụi bặm, phiền toái ở tại đời sống này. Toàn đặt nhẹ tay lên trán, miên man nghĩ về thân phận, về cuộc đời. Cuộc đời chẳng khác nào giấc chiêm bao, là cơn gió thoảng, là bóng chim vụt qua khung cửa, để rồi vào buổi hoàng hôn nào đó, đột ngột xuôi tay, giã từ khỏi đời sống phù phiếm này, bước sang cái thế giới của hư vô, đi về với cát bụi. Nghĩ đến đấy, tự nhiên anh cảm thấy ngán ngẫm, buồn tê tái.
Chán nản, anh uể oải, xoay người, quay mặt vào thành ghế, lim dim đôi mắt tìm giấc ngủ./.
TRANG LUÂN