Nợ
tình chưa trả cho ai
(Truyện
Kiều-Nguyễn Du)
Ngày mùng một và ngày rằm mỗi tháng, bao
giờ trường học của quan tư đồ Vương Doãn cũng tấp
nập môn sinh, vì đây là những ngày bình văn thường
kỳ.Tháng thì bình thơ, khi thì văn, phú, tế, biểu, đối….
Tất cả các loại văn cần thiết trong thi cử điều được
quan tư đồ ra đề để các môn sinh rèn tập và chuẩn
bị từ trước đến đợt bình văn đem ra thi thố và
luận bàn. Quan tư đồ từng giữ chức vụ cao trong triều
và từng là thầy dạy của đương kim hoàng thượng bây
giờ. Nên khi ông cáo lão từ quan về mở trường dạy
học thì từ các bậc công hầu khanh tướng trong triều
cho đến các gia đình giàu có đều mong muốn gởi gấm
con cháu của mình đến học cùng ông để có thể nên
danh nên phận sau nầy. Ông dạy rất nghiêm minh và cẩn
trọng không hề thiên vị một môn sinh nào dù đó là con
của quan to chức trọng hay con của hoàng thân quốc thích
đi chăng nữa, nhiều học trò ông đổ đạc cao và có
danh phận trong triều. Trước ngày bình văn ông đều yêu
cầu các môn sinh nộp quyển để ông chấm qua đó ông
chọn chừng năm quyển được ông phê ưu đem ra bình và
chính tác giả của những quyền đó phải đọc cho các
bạn đồng môn nghe và lắng nghe lời những nhận định
cũng như giải đáp những vướng mắc của các môn sinh
khác.
Lần nào cũng thế, trong năm quyển được
chọn bao giờ cũng có quyển của con trai quan ngự sử
Trương Học Phi. Không phải quan tư đồ vị nể người
môn sinh ấy là con quan ngự sử, bạn thân của ông mà là
tài học của chàng trai mười sáu tuổi ấy thật nổi
trội, văn chương lưu loát,lập luận sắc sảo mà lời
bình văn thì thật hấp dẫn, lôi cuốn.Trương Chi đối
đáp rất linh hoạt, đầy sức thuyết phục. Nhiều bạn
đồng môn ganh với tài học của chàng tìm mọi sơ hở
trong bài văn để đặt câu hỏi nhằm bắt bí, hạ thấp
chàng đều thất bại.Quan tư đồ đặt nhiều kỳ vọng
vào người học trò yêu quí của mình trong kỳ thi năm
nay sẽ chiếm bảng vàng đem lại vẻ vang cho ông và gia
đình quan ngự sử. Nhưng một tai họa khốc liệt xảy ra
đã làm đảo lộn những dự tính tốt đẹp đó, một
trận hỏa hoạn cực lớn đã thiêu rụi cả ngôi nhà của
quan ngự sử, già trẻ lớn bé không một ai sống sót chỉ
trừ Trương Chi. Dân chúng quanh vùng không hiểu vì sao
ngọn lửa lại lan nhanh đến thế, có người cho rằng
trời cao không có mắt nên tai họa đổ xuống gia đình
một viên quan thanh liêm, chính trực, có người hiểu
chuyện, chép miệng than: Đời nào cũng thế, bọn tham
quan ô lại đầy rẫy, chống lại nó,nó mà không chết
thì mình phải chết thôi. Vì cách đây không lâu quan ngự
sử đã dâng sớ lên vua xin trị tội bảy kẻ nịnh thần,
tham quan nhất là sau vụ vỡ đê ở sông Nhĩ Hà, bọn
chúng đã ăn xén vật tư, kê khống ngày công nhân lực
để bỏ túi riêng,chia nhau làm giàu gây nên hậu quả
nghiêm trọng khôn lường làm khổ lê dân bá tánh.
Nghi án về vụ phóng hỏa giết người
nhà quan ngự sử không đi đến đâu vì triều đình không
tìm được chứng cứ hay kẻ gian hùng đã xóa sạch mọi
dấu vết,thế lực quá mạnh chăng thì không ai biết,
cuối cùng theo thời gian cũng trôi vào quên lãng. Chỉ tội
cho Trương Chi, mặc dù thoát chết trong cơn hỏa hoạn
khủng khiếp đó, nhưng khuôn mặt thanh tú của chàng hầu
như bị hủy hoại hoàn toàn, cũng may đôi mắt và thanh
âm không bị hư tổn. Trương Chi được người chú ruột
đem về nhà chăm sóc, nuôi dưỡng gần một bến sông.
Ông nầy làm nghề chèo đò, đánh cá trên sông
để sinh sống qua ngày. Sau mấy tháng chữa trị thì
Trương Chi cũng bình phục nhưng gương mặt không còn lành
lặn như xưa, nó biến dạng đến nổi chàng không còn
muốn nhìn vào gương nữa. Để khỏi làm
người khác hoảng sợ vì gương mặt dị dạng của mình
Trương Chi luôn đội chiếc nón rộng vành kéo sụp xuống,
phía trước mặt được che thêm một miếng vải mỏng
sậm màu che khuất đi phần da mặt bị kéo nhúm lại vì
bỏng. Rồi người chú cũng qua đời, Trương Chi trở
thành người lái đò, đánh cá trên sông từ đấy.
Làm bạn với chàng từ nay là con đò, hằng
ngày lênh đênh trên sông nước để mưu sinh, nỗi cô đơn
buồn tủi với thân phận đắng cay nghiệt ngã Trương
Chi chỉ còn biết gởi gấm qua tiếng sáo, giọng hát của
mình. May mắn ngọn lửa đã không lấy mất những gì còn
lại của chàng.Tiếng sáo vẫn du dương, đằm
thắm, giọng hát vẫn mượt mà,trôi chảy, có khác chăng
là giờ đây nó chất chứa nỗi buồn nhiều hơn vui và
cũng từ đây trên bến sông nầy người ta quen dần với
một anh ngư phủ có tiếng sáo và giọng hát tài hoa làm
say đắm lòng người. Từ nay chuyện thi cử, danh hoa phú
quí không còn vướng bận lòng chàng, nó chỉ là những
bọt sóng đầu ghềnh mà thôi.
Trên bến sông nầy có một dinh thự của
viên quan thượng thư bộ hình Trần Công. Ông
cho xây dinh thự nầy để làm vui lòng người con gái mà
ông hết lòng yêu quí: tiểu thư Trần Mị Nương. Mị
Nương tuổi vừa đôi tám, nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời,
tính nết lại thùy mị đoan trang nên nhiều gia đình
quyền thế trong kinh thành cho người đến dạm hỏi, mai
mối nhưng nàng chưa nhận lời ai cả, quan thượng thư vì
yêu con nên cũng không nài ép làm gì. Không giống như
những gia đình vọng tộc khác, nàng Mị Nương xinh đẹp
ngoài việc thêu thùa khéo léo, nàng còn được phụ thân
mướn thầy về dạy học cho nàng nên cầm kì thi họa
môn nào nàng cũng am tường cả. Cảnh tấp nập chốn
kinh thành làm nàng mệt mõi không vui nên quan thượng thư
cất riêng cho nàng dinh thự gần bến sông nầy, sống gần
gủi với thiên nhiên,cây cỏ hợp với tâm tánh của
nàng. Một đêm trăng thanh gió mát, Mị Nương trằn trọc
không ngủ được, nàng bước ra hiên ngoài vọng lâu để
ngắm trăng cho khuây khỏa thì từ xa phía bến sông tiếng
sáo cất lên lúc khoan lúc nhặt, chơi vơi, chất chứa nỗi
buồn nhân thế đã làm rung động tâm hồn của nàng tiểu
thư con nhà đài các.Trái tim chưa hề biết rung động của
Mị Nương với nhạc khúc tình yêu đã bắt đầu xao
xuyến. Trên bến sông vắng Trương Chi vẫn thả hồn theo
tiếng sáo u hoài.Tai họa đã cướp đi của chàng tất cả
nhưng đã bù đắp cho chàng tiếng sáo tài hoa đa cảm.Tiếng
sáo cất lên nói thay lòng chàng, như an ủi cuộc đời
đầy nghiệt ngã mà chàng phải hứng chịu. Trương Chi
đâu biết rằng nơi lầu son gác tía ở bên sông kia đang
có một cô tiểu thư xinh đẹp đang say đắm thả hồn
theo tiếng sáo của chàng.
Mị Nương nhờ nàng hầu nữ Nghi Xuân dò
hỏi xem ai là người thường thổi sáo trên bến sông ấy
thì được biết đó là một chàng trai sống nghề hạ
bạc tên Trương Chi. Rung động trước tiếng sáo tài hoa
ấy nàng muốn tìm gặp mặt nhưng nàng hầu nữ Nghi Xuân
cố sức can ngăn vì quan thượng thư biết được sẽ rất
nguy hiểm. Thấy chủ có vẻ không Nghi Xuân bèn bày kế
cho Mị Nương nói dối quan thượng thư đi vãn cảnh rồi
giả dạng nam nhân xuống bến sông mướn đò đi du ngoạn
để có dịp nghe lại tiếng sáo tài hoa đó. Ngồi trên
đò xuôi theo dòng nước một lúc lâu chàng công tử họ
Trần kia không biết phải bắt chuyện từ đâu. Mùa nầy
bông lau nở trắng cả triền sông, xa xa vài chiếc thuyền
đánh cá tung chài trên sông nước, sương còn lãng đãng
trên đầu cây ngọn cỏ, cảnh thật hữu tình. Công tử
họ Trần cất tiếng ngâm:
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Hai câu thơ trong bài Đề tích sở kiến
xứ của Thôi Hộ đời Đường. Ở câu thơ thứ hai chàng
công tử họ Trần cố ý ngân dài ra chậm lại rồi dừng
hẳn. Không gian như chìm vào cõi không tịch mịch thì
bỗng phía sau mũi đò cất lên một tiếng ngâm đầy
thanh tú:
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.*
Cả hai thầy trò công tử họ Trần cùng
quay mặt lại mũi đò, cậu tiểu đồng Nghi Xuân cười
lém lỉnh nhìn về cô chủ như thầm khen tiểu thư nhà
mình thông minh thật.Chàng công tử họ Trần lộ vẻ hân
hoan,hai tay cung kính trước mặt, hỏi chàng lái đò:
-Thì ra huynh cũng là người am hiểu thơ
phú. Thành thật xin lỗi huynh, đệ đã dám múa rìu qua
mắt thợ rồi.
Người lái đò lật đật buông mái chèo,
hai tay cung kính đáp lễ:
- Xin công tử thứ lỗi tôi đã làm mất nhã hứng ngâm thơ của công tử, thấy công tử dừng lâu quá bất giác tôi đọc tiếp hai câu sau cho tròn nghĩa mà thôi.
- Huynh là người có học ,sao không cố chí học hành để mai sau vinh hiển lại làm nghề hạ bạc nầy?
- Xưa thân phụ còn sống có được cho học đôi ba chữ thánh hiền. Nay thân phụ mất nhà nghèo làm nghề sông nước sống cho qua ngày, không dám mơ cao.
Công tử họ Trần đề nghị:
- Nếu được phép đệ có thể kết bằng hữu với huynh được chăng?
Chàng lái đò vội vã từ chối:
- Tôi không xứng đáng làm bằng hữu với công tử đâu, thân phận tôi nghèo hèn, công tử thứ lỗi cho.
Nhưng trước tấm chân tình của chàng công
tử họ Trần, Trương Chi không tiện từ chối.Cuộc gặp
gỡ lần đầu của họ là như thế, tuy chưa thật sự
gần gũi, thân mật nhưng hình như có mối dây ràng buộc
họ như một định mệnh đã an bày.Hai người hẹn nhau
mỗi tháng sẽ gặp mặt nhau một lần.Chàng Trương thì
thổi sáo, còn công tử họ Trần thì ngâm thơ. Đôi
lúc họ ra đề cho nhau cùng đối họa thơ phú, trăm phần
tương đắc. Từ ngày được kết bạn với Trần Công
Tử, tiếng sáo của Trương Chi không còn u oán, buồn bã
nữa, tiếng sáo lại cất lên âm điệu réo rắt, yêu đời
như thuở chàng còn là môn sinh của quan tư đồ Vương
Doãn.Trương Chi đã vẽ tặng cho Trần công tử một bức
chân dung với gương mặt thật xinh đẹp như một nàng
thiếu nữ diềm tuyệt, tay đang xòe quạt, trên thân quạt
có đề bài thơ của Thôi Hộ như là kỷ niệm nhờ bài
thơ mà hai người kết bằng hữu với nhau. Nhìn bức
tranh khi vẽ xong Trương Chi chợt ao ước phải chi Trần
công tử là gái nhỉ? Chỉ suy nghĩ đến đây thôi là
chàng đã vội xua đi cái tư tưởng điên rồ ấy ra khỏi
đầu óc của mình. Riêng Trần công tử có vẻ thích bức
tranh mỹ nam nhân của mình lắm, đem về treo trong phòng
ngắm nghía rồi tự hỏi: Nếu Trương Chi biết mình là
gái thì sao nhỉ? Chỉ nghĩ đến đó thôi Mị Nương đã
ửng hồng đôi má không dám nghĩ tiếp nữa. Nhiều lần
gặp gỡ, ngâm vịnh trên đò Trần công tử dợm hỏi xin
được xem rõ mặt người bằng hữu của mình nhưng
Trương Chi lại khéo léo từ chối, lấy lí do mình bị dị
dạng từ nhỏ nên không sợ làm hoảng hốt người
khác.Thấy chàng Trương từ chối quyết liệt nên Mị
Nương thôi không đề cập đến nữa nhưng cứ thắc mắc
mãi. Những lần không có dịp gặp gỡ Mị Nương lại
lên vọng lâu nhìn về bến sông lắng nghe tiếng sáo của
Trương Chi theo gió đưa về mà miên man nghĩ về mối tình
chớm nở lớn dần theo năm tháng của mình đối với
chàng Trương mà mỉm cười hạnh phúc.
Một hôm trong lần gặp mặt,đò đang
xuôi theo dòng thì cơn dông bắt đầu ập đến, Trương
Chi vội quay mũi để tấp đò vào bờ,gió mạnh đã hất
tung chiếc nón rộng vành mà chàng đang đội.Hoảng hốt
chàng vội với thêm nắm giữ, nhưng không kịp nữa rồi,
chiếc nón đã rơi xuống sông, cùng lúc ấy là một tiếng
kêu á đầy sửng sốt kinh hoàng của Trần công tử. Vô
cùng lo sợ,Trương Chi luống cuống lấy tay che mặt quay
lại nhìn. Trần công tử đã ngã nhoài xuống sạp gần
như bất tỉnh, chiếc mũ đội đầu văng mất hồi nào
không biết, lộ ra mái tóc dài xỏa xuống bờ vai.Trương
Chi há hốc miệng, kinh ngạc:
- Trần công tử là…là…
Tên tiểu đồng Nghi Xuân trong cơn hoảng loạn
hét lớn:
- Trần công tử, Trần công tử cái gì?
Đó là Trần tiểu thư con quan thượng thư đó. Người
chèo đò tấp vào bờ mau, kêu phu kiệu đưa tiểu thư về
dinh để chữa trị không nguy mất.
Thì ra khi cơn gió làm tốc chiếc nón rộng
vành hằng ngày che khuất gương mặt xấu xí của Trương
Chi, Mị Nương đã kịp nhận ra gương mặt dị dạng,gớm
giếc mà chàng cố gắng che giấu, sợ làm tổn thương
đến người khác, nàng hoảng hốt ngất đi vì sợ hãi.
Chuyện không thể giấu được nữa rồi, cái ngày mà
Trương Chi lo sợ đã đến nhưng chàng không ngờ là nó
đến nhanh như vậy.
Suốt mấy ngày hôm sau Trương Chi lãng vãng nơi
cửa dinh quan thượng thư để dò la tin tức nhưng không
được gì, cũng không thấy con hầu nữ Nghi Xuân xuất
hiện. Sốt ruột chàng lân la dò hỏi quân canh thì bọn
chúng xua đuổi chàng như đuổi tà. Thất vọng, mòn mõi
chàng quay về bến sông nằm dài không thiết ăn uống,
thân hình ngày thêm tiều tụy đáng thương. Hình ảnh của
Mị Nương luôn lởn vởn trong đầu óc của chàng. Chàng
đã yêu Mị Nương từ bao giờ.Từ khi kết bằng hữu với
Mị Nương chàng luôn ao ước phải chi Mị Nương là gái
thì hạnh phúc biết bao, nhưng chàng quên rằng với gương
mặt xấu xí, thân phận thấp hèn của mình chỉ làm cho
sự việc thêm tệ hại mà thôi.Chàng nghĩ đến cái
chết.Phải rồi, chỉ có cái chết mới giải quyết hết
mọi việc.Rời xa thế giới đầy ô trọc nầy là một
giải thoát cho cả mình và Mị Nương.
Một buổi sáng lão ngư Lê Thái như thường lệ
đi chài lưới ngang qua chiếc đò của Trương Chi lấy làm
lạ. Đã hai hôm nay rồi con đò vẫn nằm
im một chỗ không vời đi đâu.Thường lão đi ngang qua đã
thấy Trương Chi thức từ lúc nào, pha ấm trà mới mời
lão uống một chén cho ấm bụng rồi mới đi chài. Lão
cất gọi nhưng không ai trả lời, lão khom người cúi
xuống vén tấm sáo mỏng bước vào con đò.Trương Chi nằm
đó người lạnh tanh đã chết từ lúc nào, hai tay để
lên ngực phía dưới có kẹp một mảnh giấy. Lão đở
nhẹ một cánh tay của Trương Chi lên, cầm mảnh giấy
đọc. Đó là bài thơ tuyệt mạng của
chàng:
Bụi trần chi vướng bận lòng nhau
Một tấm chân tình biết gởi đâu?
Tiếng sáo giao duyên tràn nỗi nhớ
Câu thơ ly biệt cạn thương sầu
Nửa vầng nhật nguyệt ngàn năm hận
Một khối u tình vạn kiếp đau
Tro bụi xin người hòa sông nước
Ân tình chưa trọn hẹn mai sau.
Lão ngư Lê Thái thở dài.Lão thực hiện theo
nguyện vọng sau cùng của Trương Chi, đem thi hài của
chàng đi hỏa táng rồi đem tro cốt của chàng rải trên
dòng sông mà hằng ngày con đò chàng ngược xuôi đưa đò
và đánh cá. Khi lấy tro cốt của Trương Chi đi rải sông
lão ngư phát hiện trái tim của chàng không tan thành tro
bụi mà lại kết thành một khối đá cứng. Đem
xuống sông rửa trôi đi những vết dơ bẩn bên ngoài,
viên đá lấp lánh màu đỏ huyết như viên ngọc.Lấy làm
lạ lão bỏ viên đá ấy và bài thơ tuyệt mệnh vào một
cái hộp rồi cất đi.
Riêng Mị Nương sau cơn hoảng loạn đó nàng
nằm mê sảng cả tháng trời. Quan thượng thư ngày đêm
mời thầy thuốc chữa trị bệnh tình mới thuyên giảm.
Họ nói tiểu thư bị tâm bệnh cần phải có thời gian
lâu dài mới hết được.Mỗi lần nhìn bức chân dung mà
Trương Chi vẽ tặng mình mà Mị Nương ứa nước mắt,
nàng nhớ tiếng sáo của Trương Chi. nhớ những lúc cùng
chàng ngâm vịnh trên sông nước, nàng hiểu ra rằng nàng
không thể sống thiếu chàng, chẳng qua là khi thấy bộ
mặt gớm giếc một cách bất ngờ, đột ngột làm cho
tâm trạng nàng hoảng hốt, đau khổ mà thôi. Mị Nương
nhờ nàng hầu nữ Nghi Xuân đi dò la tin tức của Trương
Chi thì gặp lão ngư Lê Thái. Lão đã kể hết sự tình,
đưa chiếc hộp đựng bài thơ tuyệt mạng và viên tim đá
cho Nghi Xuân đưa về cho tiểu thư của cô vì chính Mị
Nương là chủ nhân của chiếc hộp nầy chứ không phải
lão, lão giữ cũng không có ích lợi gì cả.
Đọc bài thơ tuyệt mệnh và viên tim đá trong
tay Mị Nương càng đau buồn, bồi hồi khôn tả. Nàng tự
trách mình trong giây phút nông nổi đã làm mất đi mối
chân tình cùng Trương Chi, thế gian nầy còn tìm đâu ra
tiếng sáo tài hoa ấy.Thấy con có vẻ quý viên ngọc đá,
quan thượng thư nhờ thợ kim hoàn chạm khắc thành một
chén ngọc vô cùng tinh xảo để tặng cho con. Ngày nọ Mị
Nương rót trà vào chén ngọc, bỗng nhiên dưới đáy chén
hiện lên hình ảnh con đò, văng vẳng tiếng sáo vi vu như
kể lể nỗi nhớ nhung thương tiếc.Hình ảnh cũ lại ùa
về, nàng bật khóc, những giọt nước hối tiếc chân
tình rơi vào chén ngọc.Trong lòng chén như có một khói
mỏng xanh xuất hiện càng lúc càng lớn dần.Cuối cùng
cả chén ngọc hóa thành làn khói xanh tan vào khoảng hư
không mất dạng.
Mị Nương lâm trọng bệnh, ngày càng thêm
nặng.Trong cơn mê sảng nàng nghe như có tiếng sáo của
Trương Chi rót vào tai,kể cho nàng nghe bao nỗi nhớ nhung
vì xa cách. Đêm Mị Nương mất ,người
ta kể lại rằng có đôi hạc trắng bay từ dinh quan
thượng thư về phía bến sông nơi ngày trước hai người
thường thổi sáo, ngâm vịnh thơ phú
đảo ba vòng,kêu vang ba tiếng rồi bay về hướng tây mất
hút.Bức chân dung treo trên tường cũng mờ dần nét vẽ
rồi mất hẳn như chưa từng được ai đó đặt bút vẽ
lên bao giờ.
NAB - Tháng 6/2013
*
Tạm dịch: Đề chỗ đã thấy năm trước
Cửa
nầy, năm ngoái, hôm nay
Hoa đào
phản chiếu mặt ai ửng hồng
Mặt
người giờ ở nơi nao?
Hoa đào
vẫn đó, cười chào gió đông (Thôi Hộ)
Trần
Trọng San dịch