bìa tuyển tập thơ văn của PBTD do Little SG ấn hành |
Hai
câu kệ của tổ sư Thường Chiếu đời nhà Lý, được
nhà thơ Phan Bá Thụy Dương chuyển ý “ngoài cõi trời
bao la vô tận đó/ có nơi đâu chẳng thể gọi là nhà”.
Cái khuynh khoái của người nghệ sĩ chất nhẹ trên đôi
vai gánh tang bồng, thì thế sự chất chồng chung quanh nẻo
sống chỉ là những cát bụi phù du. Bước đạt ngộ của
kẻ làm văn nghệ hình như cũng tương đồng với thậm
thâm vi diệu pháp của người tu chứng. Quẫy trên lưng
cả một vũ trụ nghiệp chướng dầy đặt những hạnh
phúc hay khổ đau, như quẫy nhẹ cả hư không trong lòng
người đạt ngộ.
Thơ Phan Bá Thụy Dương có cái gì nhè
nhẹ, loáng thoáng lúc khinh bạt như hình dáng một người
hàn sĩ vác thanh kiếm hồng, vửa du hành vửa ca tụng
thanh thoát giữa rừng bạch tùng đầy mù sương và khí
thiêng. Nhưng người khách tiêu dao kia, không chỉ một
đường đi thẳng trầm lặng trong vũ trụ riêng mình. Hàn
sĩ vác thanh khí gươm hồng, ngoãnh lại sau lưng cười
nhẹ nhàng chia sẻ dưỡng trấp hậu thiên cùng người
đồng điệu nhân gian. Cái ngoáy nhìn lại trong giây phút
vô hư chính là trang trải nỗi niềm thanh thản bồ tát
đạo, hình như chỉ để chia sẻ những tinh hoa và hạnh
phúc thường hằng, còn ẩn hiện trong hàng vạn lớp
thượng tầng sinh khí với vạn vật của ba ngàn thế
giới quy tông.
Dù
Phan Bá Thụy Dương có giây phút phân trần “cõi trần
thế lỡ đam mê sa đọa/mãi rong chơi ta lạc lối quay
về”. Nhưng nhìn kỹ đi, lời nói ởm ờ được nhà thơ
bạch sĩ đặt trang trọng đầu thi tập, như lời quảng
bá tư thức và hành hiệp lãng bạt trong suốt tập thơ
Lời Gọi Cỏ May, thì không phải vậy đâu...Có ý niệm
quay về, là có tâm thức đáo bỉ ngạn, quay đầu là bờ.
Tất
cả ngôn ngữ thi ca, trong suốt quãng đời phiêu bạt của
người cuồng sĩ lãng đãng trên thi ca, Phan Bá Thụy Dương
chính là người đạo sĩ tài ba thuần hóa từng chi tiết
một cho hồn thơ con chữ “thôi thôi ta về ôm góc núi/
đẻo gỗ trầm hương tạc tượng nàng”, từ tinh túy
mật diệu trầm hương, đến hứng tinh hoa nhật nguyệt
mà lay động cả càn khôn, hầu “dựng am đường hội
chứng vô âm”.
Chiêm
nghiệm thơ lão mai Phan Bá Thụy Dương, khiến tôi chất
ngất trong thanh khí tuyệt bích, lãng đãng lướt nhẹ
trong hiện thức, rồi như cơn cuồng vọng bất chợt chìm
lắng lặng lờ quanh cái có cái hư không. Cũng vậy, bỗng
dưng và không hiểu tại sao tôi chợt bước vào hai ngõ
rẽ, như hai con đường định mệnh bắt buộc, người
trần gian từ đó trầm tưởng chọn lựa để quay về.
Một là khí lực thượng thanh lão đạo của Phan Bá Thụy
Dương, nhẹ nhàng như lão tiều già thoát tục gánh bó
củi khô, như sương như khói thoạt ẩn thoạt hiện trên
vách núi cheo leo. Một như âm khí đục lẳng, gom góp cả
một trời ngôn ngữ của ngàn trùng, của gió hú và nghe
thời khắc rơm rớm âm sầu của cầm dương trấng cầm
dương xanh ngất lạnh (Nguyễn Lương Vỵ/ Tám câu lục
huyền âm). Quả thật, giữa hai đối cực trùng trùng
thần thông, trước cái lạnh chất ngất ma quái của thơ
Nguyễn Lương Vỵ, lại là một thanh khí huyền bá phiêu
lãng vi diệu trung đạo thì có màng gì cái sắc cái không
trong thơ Phan Bá Thụy Dương! “trong chốn mơ hồ u tịch
đó/thoáng nghe dìu dặt tiếng tiêu buông/thõng tay theo
gió, theo mưa lũ/tâm trụ an nhiên/ mộng bình thường”.
Nhìn
đây, hình ảnh Trang Châu loáng thoáng theo gió, theo mưa
lũ, mà trụ tâm. Thõng tay mà an nhiên, như Trang Tử bật
thốt ngơ ngác, không hiểu gió thổi mình hay mình lướt
theo gió. Cái thường trụ là hiển nhiên trong thế giới
sắc dục, nhưng thể chất nhân gian vẫn là rào cản bước
vận hành thanh khí chân như, huống hồ gì ngôn ngữ cũng
chỉ là hiện thể vật chất có thành trụ hoại diệt,
tạm bợ luân chuyển trong đời sống và nghệ thuật. Như
vậy, tâm và ý bất chợt hiện nhập làm một, và thi ca
và thi nhân cũng nhập thể hóa thân. Thì, thơ như đường
trăng soi khi hoa nở, và mỗi nhân thế có một nét rung
động khác nhau, nhưng thơ vẫn là một trong một ý niệm
niêm hoa vi tiếu của thi nhân:
Chim
thức giấc cất lời ru thật lạ
người
phong trần
qua
mấy độ truân chuyên
thấy
gì chưa
tự
ngã với uyên nguyên
hay
ngần ngại chia xa lòng thung lũng?
từ
tiềm thức đã lạc quên long trượng
đâu
đây chừng thấp thoáng ánh vô ưu
thiền
khách nầy-
thiền
khách đã về chưa?
…………….
(Nói
với thiền khách/Lời Gọi Cỏ May)
Bước
vào thế giới thơ Phan Bá Thụy Dương, phải bằng bước
chân thong thả nhẹ nhàng và chất chứa một thông thoáng
đạo vị. Nhưng đừng lầm lẫn trong phong thái tiêu dao
trên từng ngôn ngữ thơ, mà lạc bước trong vòng xoáy
sắc không, đang huyển hóa từng thời khắc theo phóng bút
của người thơ. Cái lãng đãng tiêu dao của một không
khí mai lan trúc cúc, gió sớm mây chiều, giọng hát trong
âm thanh sên phách, thì chính thị là khuynh thế Lão Trang
. Từ “gánh càn khôn u uẩn tiếng mưa khơi” đến an
nhiên của vô vi “tay ơ hờ vuốt gió hát buâng quơ”. Ý
niệm đó, trong Bài Tâm Ca Vô Niệm, Phan Bá Thụy Dương
đã đồng ý khi thi bá Vũ Hoàng Chương nhẹ gật đầu
“Túy-ca bè đã thả rồi/ Túy-hương xưa hãy cùng trôi
ngược về”.
Nhập
thể tam thanh, là hình thức khiến thơ Phan Bá Thụy Dương
phiêu hốt hằng hà sa số với cơn trốt hư không. Cuộc
sống đi - về như mây trôi gió nổi, nửa tục nửa tiên
ôm một giác đạo của hình thức hoạt ngộ giới xiển
giáo. Đời tử sinh còn lẽo đẽo khiến thơ lúc quanh
quẩn bụi hồng trần, lúc tiêu dao xua tự ngã u minh.
Chính vậy, đường thơ đi như tạc hình ẩn khách, khiến
xiêm y loạn lửa chân như “bạt ngàn - đêm tận tuyệt/
rải sa mù khuất bóng nẻo từ ly”.
Uống
khô dòng suối, tát cạn biển Đông…cũng có thể làm
được, vì đó là một hiện thể dục giới.
Nhưng
hóa hiện chất ngất của một câu thơ mà đêm tận tuyệt
chắc chắn phải trải dài trong không - thời gian vô định,
bất phân ly thời khắc để biết đâu là nguyên thủy
đâu là vô cực vô chung. Xá gì, lại rải mù sa phân kín
hư không trong sắc giới chiêu hồn cho khuất bóng nẻo từ
ly. Hàng hàng vi diệu trải dài trong cuộc đời, họa
chăng hiện hữu cũng chỉ là dấu vết ký gởi nhỏ nhoi
trong sắc giới. Cái ảo ảnh nhiểu lúc tương ly tương
biệt cũng huyền biến cho tâm trần thi nhân phải trài ra
mặt đất, dù có dưới ánh sáng thái dương hay giữa
sương mù lãng đãng. Hiện hữu đó như kẻ thõng tay vào
chợ, dù chưa thấy được trâu trắng nhưng cũng thảng
thốt :
về
đâu cánh vạc Chân Như
có
qua thủy mộ huyết hư chập chờn
người
đi sấm vỗ hoàng hôn
nhịp
khua long trượng
động
hồn lửa thiêng
nhập
dòng sinh hóa vô biên
biển
mê bến ngộ đôi miền tịch lương
bay
đi - lão hạc vô thường!
(Túy
mộng du du hề/Lời Gọi Cỏ May)
Mỗi
người chiêm nghiệm sự hóa thân của thơ, như những
hình tượng được đặt ở nhiều góc cạnh khác nhau,
bốn phương tám hướng. Nhờ vậy, nét phân ly trong từng
thẩm thấu tri ngộ như những giọt sữa tinh khiết, nhỏ
giọt làm tươi xanh sức sống hạnh phúc. Nhưng mỗi ấn
tượng tri ngộ hình như cũng chuyển hóa khác nhau, bởi
từ góc đứng mà cảm thức theo trí tuệ tâm thông. Thơ
Phan Bá Thụy Dương có một quan điểm nghệ thuật riêng
biệt, của riêng một thế giới mã não mà tự Ông xây
dựng. Thế giới như vậy, theo một kiến trúc kỳ vĩ
quá, khiến thơ bát ngát, chứa đựng cà một không gian
thời gian xấp lốp theo bạt ngàn của ý thơ sinh hóa.
Hình thể của một cư trú sang trọng, trang nghiêm, đã
tách xa những địa hạt thổ cư của các dòng thơ khác.
Quả thật, trong những hội ngộ bạch thoại với những
lão thi sừng sõ bằng hữu, thơ Phan Bá Thụy Dương cũng
trải dài trong tán thán của nhiều người quen. Nét hạnh
ngộ tương phùng của tri kỷ tri âm, là hình thức tam hoa
tụ đỉnh cung hiến cho thơ.
Thơ
vô cùng vô tận, nhưng ngôn ngữ vẫn còn trong một giới
hạn hữu hình. Người làm thơ vẫn là nhân dáng, mang
trong nghiệp chướng nhiều ân điển thừa trừ từ nhân
quả nào. Sự yên lặng giữa bộn bề cuồng quái của
cuộc sống, thơ vẫn lặng chảy như dòng suối nhẹ nhàng
trên hòn non bộ thu nhỏ đất trời. Thi nhân đạt quả
vị, tâm hồn cũng trầm lặng như thế, nương thơ mà làm
khách tha phương, không bận rộn chuyện thị phi vương
vấn:
ghé
quán bên đường cạn một ly
cơ
hồ tiền kiếp gợi sân si
rót
thêm chai nữa-thêm chai nữa
thì
chuyện tới lui có xá gì
ngửa
mặt cười khan cùng nắng quái
men
nồng như phảng phất đâu đây
người
xưa tích cũ trong thi sử
ai
kẻ luận đàm việc tỉnh say
thôi
tôi, cời chút than sưởi gió
vói
tay bắt bóng trả cho mây
(Bài
túy ca viết trên cố hương/Lời Gọi Cỏ May)
Với
tay bắt bóng trả lại cho ngàn mây, những diệu ngã cũng
vẫn là cái chấp, dù đó là bản ngã vi diệu thậm thâm.
Những hình bóng hữu vi, vẫn thoắt ẩn thoắt hiện,
không có gì nhập thể vô ngã. Thơ Phan Bá Thụy Dương,
vịn trên ngôn ngữ mà trải dài những biến dịch vô
thường. Chính nét nhìn xuyên thấu ngôn ngữ, chẻ vụn
thần khí chữ nghĩa để tìm từng hạt ngọc quý mà lau
chùi. Nét tinh quang rạng rỡ giữa tịch mịch hư không,
khiến :
bến
nhân gian ai quán niệm vô thường
hành
trình xa ngựa đà lỏng dây cương
trên
vách núi chân dung ai mờ tỏ
……………………………………….
đốt
công án, buông kinh thư giác ngộ
vào
chợ đời áo mỏng phất phơ bay
bụi
khói mê man
chênh
chếch nắng gầy
lời
phố thị chập chờn như ảo giác
(Liên
khúc vô thường/ Lời Gọi Cỏ May)
Nhập
thể với vô thường, khiến dòng thơ trôi loáng thoáng
trong gió nổi, Phan Bá Thụy Dương hình như vẫn an nhiên
rong chơi trên vùng dất mới, mà nhà thơ Trần Tuấn Kiệt
thường phán đoán “hay đang trầm tư lắng nghe các
chuyển động của hữu thể hòa nhập với thời gian trôi
nổi vô lường…..”
NGÔ
NGUYÊN NGHIỄM
Viết
tại Thư trang Quang Hạnh
Rằm
Nguyên tiêu, Quý Tỵ (2013)