Buổi chiều, khi
ông Tâm trở về, trời chưa tối hẳn. Hôm nay là ngày
cuối ông ở Albany, cái thị trấn nhỏ bé miền cực Bắc
New York. Hơn mười bảy năm ông đã ở đây, làm việc,
chơi đùa, đi lang thang cà khịa với những người bạn
Mỹ, uống những lon bia trước TV, dò dẫm từng bước
chân trên những đụn tuyết, và có những năm không tìm
được một người để nói tiếng Việt. Công việc trong
sở, ông đã thu xếp xong từ hôm kia. Ông chỉ đơn giản
thông báo là ông quyết định về hưu.
“Tôi sáu
mươi lăm tuổi rồi. Tôi phải chấm dứt những ngày vào
đây ngồi trước máy tính, gõ lóc cóc những con số với
ký hiệu nhảm nhí chứ.” Ông Tâm nói với supervisor như
vậy và qua phòng nhân viên làm giấy tờ. Bấy giờ là
mùa hè, nắng dịu hắt qua những khung cửa kính, lay lắt
bên các tấm rèm. Những thảm cỏ buổi trưa ngoài sân
xanh nhạt nhạt vàng vàng chạy vòng quanh những gốc phong
ra tận ngoại ô Albany. Ông chỉ tay ra cửa sổ, giải
thích cho Mike, một người bạn Mỹ trẻ hơn nửa tuổi
ông, “Mày thử nhìn màu nắng kia xem. Trong không khí ấy.
Trên những lớp cỏ kia. Làm sao chịu đựng nổi cuộc
đời này với ngần ấy thứ đẹp như vậy. Mỗi ngày
cuộc đời càng đẹp hơn, nắng càng rực rỡ hơn, cỏ
càng dịu dàng hơn, và mùa đông thì tuyết càng trắng
hơn. Hôm nào tao sẽ nằm sâu trong lòng đất này, dưới
lớp cỏ ấy, để buổi trưa nắng sưởi ấm và nửa đêm
tuyết trải mền. Phải ngồi trong những căn phòng này
chi vậy, nghịch ngợm với mấy cái máy chi vậy. Tao phải
lên xe và đi cho hết những ngày của tao chứ.”
Buổi
party tiễn ông đã xong chiều nay. Khi đứng ngoài tầm mắt
mọi người ngoài sân đậu xe, bà Shirley ôm ông khóc mùi
mẫn. Tao thương mày gần chết, bà thì thầm vào tai ông
như vậy, bao nhiêu năm rồi tao thương mày mà. Tao đòi về
ở chung, mày cũng không chịu, bây giờ mày lại bỏ trốn,
sao vậy. Bà Shirley siết chặt lấy ông, ghì sát ông vào
cửa xe ông, lại vươn người cao lên thì thầm vào tai
bên kia của ông Tâm, mày dễ thương nhất trong bọn
Oriental thị trấn này, tao muốn squeeze mày ra nước. Đôi
mắt bà đỏ lên, mái tóc bạch kim pha trắng rung rung. Ông
Tâm vỗ vỗ vai bà, trả lời thật nhỏ vào tai bà, thì
tao có mời mày mỗi buổi chiều ra thư viện công cộng
đọc sách đó chứ. Tao có tặng hàng trăm cuốn sách cho
mày mà, chục năm rồi tao thương mày gần chết. Còn về
phòng ở chung thì tao không thích mà, lâu lâu đi chơi với
nhau được rồi. Ờ mà tao cứ nhớ hoài cái lần tụi
mình đi họp ở Canada mười năm về trước, nhớ không,
kỷ niệm đầu đẹp quá mà. Ông vừa nói giọng thương
cảm, vừa đưa tay vuốt lưng, vuốt vai, vuốt mông bà,
tao cảm thấy có cái gì bắt tao phải đứng dậy đi,
chắc là tuổi già hoặc, giọng ông trở nên ngập ngừng,
hư vô hoặc cái gì không hiểu được mỗi đêm vẫn đánh
thức tao dậy. Tao nói mày chuyện này nhiều lần rồi mà.
Tụi mình yêu nhau ngồi nhìn ra cửa sổ đủ rồi... Có
cái gì bao la lắm, mênh mông lắm bên kia bước chân tao.
Tao có cảm giác một hôm bước đi có thể sẩy chân và
sẽ bay bổng vào cái bao la đó. Shirley siết cứng người
ông, tao biết mày muốn về Việt Nam, mày thích đọc
sách, và nghĩ tới đồng bào mày, thì muốn gì tao đâu
có cản đâu. Không, không phải vậy, không phải chuyện
đồng bào tao, xa lắm, xa rồi, ngoài tầm tay tao mà, chỉ
là chuyện tao cảm thấy tao biến mất vào cuộc đời này
thôi, tan dần vào đời, vào không gian trước mặt, tao
hạnh phúc lắm, không hiểu tại sao, mà rồi phải đi. Bà
Shirley hôn vào môi ông một chặp rồi gục mặt vào ngực
ông khóc, mày có đi đâu thì cũng nhớ cho tao địa chỉ,
số phone này nọ, rồi tao sẽ đi tìm mày dù ở bất cứ
nơi đâu. Chỉ cần mày nói, tới đi, hoặc mày đang bệnh
nằm ở đâu hoặc nhớ tao hoặc cần bất cứ cái gì tao
có, cứ gọi tao, tao sẽ bỏ hết mọi chuyện trên trần
gian này chỉ để chạy theo mày. Bà bấu chặt vào vai ông
Tâm, làm sao tao sống được nếu không có mày trong đời
tao. Ông đã hứa sẽ liên lạc thường xuyên, sẽ gọi
tên Shirley mỗi khi gặp tai nạn trên đời này.
Ông
Tâm có vài người bạn ở rải rác trên nước Mỹ, nhiều
người còn ở Việt Nam. Ông dự định lái xe xuyên bang
về miền Tây. Mình sống được trong mọi hoàn cảnh kia
mà, ăn ngủ trên xe cả năm cũng vui được vậy, ông tự
nhủ trong khi sập cánh cửa sau chiếc pick-up. Ông nhớ
những ngày ngủ ở ven rừng hoặc chòi canh ruộng. Không
có gì vui mà cũng không có gì buồn hết, ông chỉ đơn
giản không phân biệt rắc rối nữa.
Trong xe chỉ
có mấy cái mền, hai va li áo quần, một thùng sách. Ông
băn khoăn khi ngồi vào tay lái, mình có nên gọi Shirley
nhảy lên xe đi luôn không, hay là ghé nhà nó ngủ một
đêm gọi là vĩnh biệt. Mắt ông nhìn ra xa, những rặng
núi xa vươn đỉnh cao che khuất từng phần cái xa lộ đẹp
nhất nước Mỹ làm thành các đường viền như vẽ những
đôi mắt phụ nữ. Lủng lẳng giữa xe, treo kiếng chiếu
hậu là tấm thần chú chín chữ Chuẩn Đề do ông ép
plastic khi mới mua xe, có mấy chỗ sứt bên mép trái chữ
Phạn thứ tư. Ông bật máy và chạy đi, mình thương nó
gần chết, nhưng thôi để lúc khác nhớ.
Trước
mặt đầu xe là những thế giới chưa thấy, ông tự nhủ
như vậy để tự nhắc nhở về thói lái xe ẩu. Ông đã
định sẵn lộ trình về miền Tây rồi. Đầu tiên là
qua New York City chơi trước đã. Ông muốn vào Greenwich
Village chơi một đêm. Ông muốn hít thở không khí Âu
Châu ở đây, dạo quanh khu Washington Square nửa đêm, vào
những con đường chật hẹp, đông đúc. Thỉnh thoảng dư
thì giờ, ông lại về đây, lái xe mấy tiếng đồng hồ
rồi nhảy xuống phố như trong phim cao bồi, trở về đây,
đất của bọn nghệ sĩ, nhà văn lang thang và cả của
những nhà tư tưởng cách mạng.
Gió mát lạnh luồn
vào xe qua những kẽ gió. Ông hít những hơi thật dài vào
bụng. Mình đi đường trường phải giữ đúng phép thở
chứ không thì dễ mệt lắm, ông nhớ tới những ngày
còn thơ ấu khi tập đủ các phép thở, hơi ngắn, hơi
dài, hơi sâu, hơi nhẹ, một lỗ mũi, hai lỗ mũi... Ông
nghĩ tới phong trào Beat Movement còn rơi rớt lại với
những tên họa sĩ ngồi ngoài đường số 6. Trước kia
cũng có một thời ông ngồi ở đó, mỗi chiều cho tới
hai, ba giờ sáng, khi trên đường ngơi khách hẳn. Mỗi
bức chân dung đen trắng ông vẽ được trả mười đồng,
sống cũng được một ngày. Ông đã gặp nàng ở đó.
Một đêm đã rất trễ, những người khác chuẩn bị
cuốn đồ nghề để về. Một người phụ nữ Á Châu
tới đứng trước mặt ông. Ánh đèn đường chỉ soi
được nửa khuôn mặt nàng. Ông đứng dậy như phản xạ,
ngây ngất vì vẻ đẹp dị thường của nàng. Ông thấy
nàng nửa như quen thuộc, nửa như xa lạ. Nàng mặc váy
ngắn, màu cà phê sữa nhạt. Tay xách bóp đen, nàng nở
nụ cười nhìn ông.
Lâu lắm rồi, dạo đó cũng
mười mấy năm rồi. Bấy giờ đang ồ ạt các đợt
thuyền nhân, nhưng người Việt ở New York còn ít. Và bấy
giờ thì ông Tâm cũng còn là một trung niên họa sĩ, sống
bằng nghề vẽ chân dung, nhưng vẫn làm việc chuẩn bị
cho các cuộc triển lãm trên những lầu phố Broadway. Ông
tự tin vào tài năng và đam mê của mình. Ánh sáng trắng
nhạt nhạt một bên má nàng. Nàng đứng im trước mặt
ông như pho tượng, nụ cười nở to, nhìn thẳng vào mắt
ông. Nàng phải thuộc lớp thượng lưu, ông đoán vậy.
Nét mặt thanh tú, sóng mũi cao hơi gãy nhẹ, vầng trán
thông minh, và đôi mắt cực kỳ ngây thơ. Ông đoán, với
cách ăn mặc thanh nhã và gọn gàng như vậy, nàng hẳn đã
ở Mỹ lâu rồi.
“Thưa cô...” Tự nhiên ông nhận
ra ông đang nói bằng tiếng Việt. Ông ngập ngừng rồi
chuyển sang tiếng Anh hỏi, giả thiết như họ là người
Tàu hay Nhật. Ông hy vọng sẽ nghe một câu trả lời Việt
Nam.
“Tôi cần một tấm chân dung.” Nàng trả lời
rành rẽ bằng tiếng Anh. Ông hơi thất vọng, đáng lý ra
nàng là người Việt thì hay hơn biết bao. Ông mời nàng
ngồi, và gợi chuyện. Ông sửa soạn bút, mực, kẹp giấy
vào khung. Nàng là người Nhật, ở Mỹ cũng mươi năm
rồi, làm việc cho một ngân hàng.
Nàng duỗi đôi
chân ra, vớ lụa màu da bóng lên dưới ánh đèn. Ông hơi
ngạc nhiên, đáng lý ra chân nàng phải cong, người Nhật
thường có chân cong. Ông không tin là ông đang ngồi trước
mặt nàng, ông nói cho nàng biết như vậy, giải thích
thêm là nàng quá đẹp. Ông nói, ngồi đây, trên chiếc
ghế nhỏ, dưới ánh trăng đỏ lửng đang lẩn khuất sau
cạnh các buildings, các chung cư hàng chục tầng, nàng là
cái gì không thật, cái gì cực kỳ mơ hồ, hoặc ngược
lại cũng được, ông lúng búng giải thích, chính nàng
mới là cái thật muôn đời, và đang làm hư hóa tất cả
thế giới chung quanh. Ông ngạc nhiên thấy mình đang dùng
những ngôn ngữ phức tạp, trừu tượng, nói chuyện với
một người lần đầu mới gặp. Ông hỏi nàng ngồi có
thoải mái không, có thể nhúc nhích một chút cũng được
nhưng đừng đổi vị trí.
Ông nói với nàng, tôi
đang nói nghiêm trang đấy nhé, đây có thể là bức tranh
đẹp nhất tôi đang vẽ. Ông đổi sang giọng đùa nghịch,
hoặc tôi bán tấm này giá trăm lần bình thường hoặc
tôi tặng không. Ông vẽ thật chậm, từng nét, có lúc im
lặng cả năm phút, có lúc như nín thở rồi lại thở
phào ra và mở miệng đùa một hai câu.
Ông xúc
động, người choáng ngợp và căng đầy dưỡng khí, nhìn
từng nét trên người nàng. Hàng ren đăng ten váy lót lộ
ra dưới đầu gối nàng. Ông như nhìn thấy cả cánh mũi
nàng đang phập phồng. Cặp độn vai và lồng ngực xinh
xắn cử động theo nhịp thở. Gò má bầu bĩnh. Những
ngón tay vòng quanh đầu gối thon, đầy.
Tới nét
cuối cùng, ông đứng dậy, xoay tấm tranh ra cho nàng xem.
Tôi không thể vẽ được tấm thứ nhì như thế này được
nữa, ông nói. Nàng hỏi giá. Ông nói chỉ tặng nàng
thôi. Nàng dúi vào tay ông năm chục. Lúc đó là năm 1979,
năm mươi đô la là nhiều lắm. Nàng cầm tấm chân dung
và bước về hướng Brooklyn. Tướng đi gọn gàng, uyển
chuyển, lộ ra đôi mông nhỏ nhắn dưới lớp vải lụa
và bóng đêm hắt xuống. Khi nàng khuất sau những cột
đèn vàng, ông như còn nhìn thấy nàng đang đi trên đường,
gõ từng gót giày đen xuống mặt đá, hàng ren đăng ten
dưới gấu váy phất phơ trên đầu gối nàng.
Ông
thở dài, vậy mà mười mấy năm rồi. Ông nhìn vào kính
chiếu hậu, hàng hàng xe đã bật đèn lên. Trời đã
chuyển về đêm. Ông mở đèn xe. Shirley thường trách ông
cái tật lái xe ẩu, nhận bao nhiêu giấy phạt cũng không
chừa. Ông nhớ hồi chiều, câu cuối cùng Shirley dặn dò
lại là coi chừng cảnh sát xa lộ. Khổ vậy, chẳng
romantic tí nào, ông lầu bầu và mồi một điếu Winston.
Buổi trưa hôm ấy, khi còn nướng ngủ trên cái giường
hôi như ổ chuột, ông mở TV đài số 5 xem tin. Tin về
các cuộc khủng bố, không tặc. Ông lầu bầu khi nghe tin
chiến tranh Trung Đông có thể bùng nổ nếu cứ cái màn
khủng bố và bắt con tin tiếp diễn. Chiến tranh ở biên
giới Tàu Việt. Bắc Kinh tuyên bố đang cho Việt Nam một
bài học. Ông Tâm băn khoăn, đất nước nhiễu nhương
quá, nhiều khi nổi giận muốn to tiếng chửi thề cả
thế giới này.
Con nhỏ xướng ngôn viên bắt đầu
vào tin địa phương. Debbie Johnson, hoan hô em, hoan hô em
xướng ngôn, em đọc tin, em Debbie, ông Tâm nói với người
đang ngồi trong TV. Debbie đọc tin tai nạn xe rạng sáng
nay. Một người đàn bà Nhật đang đi trên hè bị một
chiếc xe truck cán lên nát người, trên tay còn cầm tấm
chân dung nét mực còn tươi, rách tan ra. Cảnh sát đã bắt
tên tài xế trong tình trạng say be bét. Ông Tâm lặng
người đi, hai bàn tay như tê lạnh ra. Ông nhớ tới hình
dáng nàng ngồi đêm qua, trước mặt ông, nghiêm chỉnh,
gấu váy phất phơ lộ ra hàng đăng ten. Ông nhớ tới lời
ông nói với nàng, đây là người đàn bà đẹp nhất mà
ông đã gặp, và đây là bức tranh có lẽ là đẹp nhất
của ông. Ánh đèn đã hắt xuống người nàng, cắt những
vùng ánh sáng trên mặt nàng. Ông nhớ có lúc ông đã im
lặng cả năm phút, thở đầy hạnh phúc trong lồng ngực,
nhìn nét ngồi nghiêng của nàng.
Khi nàng đứng
lên, cách đưa tấm giấy 50 đô la kiểu rất là Đông
phương, dúi vào tay ông và quay đi. Ông nhớ ông đã nhìn
theo nàng, sau lưng, dáng đi uyển chuyển, đôi mông thon,
gấu váy phất phơ. Ông đã tự nhủ, chắc không còn
người đàn bà nào đẹp hơn nữa.
Và bây giờ thì
cô nàng đã nát tan dưới bánh xe truck rồi. Ông vẫn có
cảm giác hình ảnh nàng vẫn còn lơ lửng trong không
gian, ở đâu đó trên Washington Square. Tự nhiên ông muốn
ói và nghẹt thở, người nóng hầm hập. Ông nằm bệnh
liệt giường suốt một tuần, mỗi khi mở mắt ra vẫn
hình dung dáng nàng ngồi trước mặt ông, trong tấm tranh.
Ông đạp mạnh ga. Tấm thần chú chín chữ Chuẩn
Đề treo nơi kính chiếu hậu lắc lư. Shirley cứ thắc
mắc có phải đó là những chữ của black magic. Ông cứ
phải trả lời không. Cũng trên xe này, nhiều lần ông đã
ôm Shirley, hôn vào mặt, mũi, vuốt mái tóc bạch kim pha
bạc, vuốt thân hình còn khá thanh mảnh, dưới tấm thần
chú đó. Ông đã trả lời, không, đây là những chữ của
trí tuệ. Bà Shirley hỏi, mày nói cái gì wisdom, giải
thích tao coi... Trí tuệ, ông lầu bầu, wisdom, là trí tuệ
thôi, mày đừng hỏi lôi thôi. Tao không đủ chữ để
giải thích những điều mà ngay cả trong tiếng Việt tao
cũng lúng túng. Ông nhìn thẳng ra trước đường, sắp
tới dòng Hudson rồi, qua cầu là vào New York. Cả những
vùng đèn sáng bên kia sông. Tự nhiên nước mắt ông ứa
ra. Ông đưa tay kéo cổ áo cao thêm.
|