Nơi tôi ngồi, bên kia
khung kính là biển. Cát chạy dài, nước liếm từng
lượn nhỏ xuống và lên. Cầu tàu đi từng nhịp khẳng
khiu. Dăm người
đi tới lui dưới ánh đèn vàng tỏa
trên vai cầu. Tôi nhìn. Sóng vỗ sủi tăm.
Phía trong,
người ca sĩ Mỹ đứng nhịp chân hát; mặt nàng thật
tươi.
Người nhạc công da đen bên cạnh thổi chiếc
kèn trumpet, môi phùng
lên từng câu. Gã Mỹ trắng gõ
hai tay lên dàn organ, người gật gù. “Ông cần
gì?” “Một tí rượu.”
Nàng ca sĩ lại tới
những nốt nhạc cao. Nàng ngẩng mặt thật cao, đưa
tay
hướng về khán giả, những gân cổ hiện lên trên
làn da thật trắng, hát
những lời thê thiết. Khuôn
mặt nàng thật trẻ, như vị thành niên, chưa
thích hợp
với giọng khổ đau trên môi nàng. Chỗ tôi ngồi quá
xa nàng
để có thể nhìn xem nàng có dùng nhiều phấn
son không. “Thưa ông, rượu gì?” “Thôi, khỏi
rượu. Một ly magarita.” Khi cô hầu bàn quay đi, tôi
gửi thầm lời cảm ơn. Lí nhí trong miệng. Ngoài
khung kính mờ, ánh đèn vàng trên các vai cầu, và sóng
đùa theo
ven cát. Maxwell's. Lần trước tôi tới đây
với anh T. Người nhà văn già lúc nào
cũng cầm theo
chai rượu. Lần trước nữa thì tới với D. Những
buổi tối,
ánh đèn mờ, lời ca vọng từ xa trên sân
khấu, và những người hầu bàn
mang nơ đỏ. Lần
trước thì ngồi bên quầy rượu, nhìn trực tiếp vào
những
hàng chai, ly, tách, và hai người pha rượu luôn
miệng hỏi và luôn tay pha. Anh T. đã say, người ngả
nghiêng, tóc gần bạc rồi. “Phải theo tôi tới
sáng chứ. Đòi về cái đếch gì.” Người pha rượu
nhìn chúng tôi, miệng mỉm cười. “Bây giờ là
sáng rồi anh ạ.” Tôi ước mơ được nằm trên
giường lúc đó. Trùm mền. Cũng đã uống rượu
từ
chiều. “Bố nhắng vừa thôi chứ. Mới chín giờ
tối thôi.” D. im lặng mỉm cười. Lúc nào cũng mỉm
cười. Sóng vỗ ngoài kia, nhưng tôi
không nghe được
những âm thanh đó. Trần gian quá gần, sờ được, nắm
tay
được, phả hơi thở vào nhau được. Buổi tối.
Những buổi tối. Khung kính
đượm sương phía ngoài.
Tôi đưa người bên cửa chiếc thẻ xe và chờ. Buồn
ngủ lắm. “Anh có muốn đi một vòng biển rồi
về?” “Thôi, về chứ.”
*** Tôi và các
bạn thường ngồi ở quán Hoàng Hôn, những buổi
chiều, và có khi
cả đêm, tới khi người đừ ra vì
cà phê, vì thuốc lá, vì mệt, vì không còn muốn
ngồi
nữa, hoặc chẳng vì lý do gì cả. Những chiếc ghế
đẩu thấp, nhìn ra phố,
nhìn vào nhau, mòn vẹt, sứt
mẻ. Cách hai căn bên cạnh là quán Bình Minh.
Cũng những
tên quen mặt. Những năm đầu 70, tôi mới tập ngồi
nhìn buổi chiều.
Không có một khoảng thiên nhiên nào
trước mặt, chỉ có phố, trước mặt, sau
lưng, và
khắp chung quanh. Sài Gòn mịt mù dầy đặc người và
phố. Những ngõ
ngách quanh khu Bàn Cờ lúc nào cũng đưa
về nơi không định. Đất nước nghèo
và chiến tranh
mệt mỏi đến không buồn ngó tới. Buổi chiều ngồi
bên hè. Nắng
vàng quạch, thê thiết. Có đêm tôi ngồi
đây tới khi không còn ai khác. Bình trà
cạn cũng mấy
lần. Mấy tên bạn chuồn về ngủ, tìm chút gì để
ăn hoặc lo bài vở
từ hồi nào. Cô nàng chủ quán,
tôi quên tên rồi, xinh xắn, ưa cười, bước tới và
bảo là tới giờ đóng cửa. Tôi lừng lững đứng
lên, phóng lên chiếc xe đạp, lại đạp
lang thang một
chặp. Rồi mới về. Giai đoạn đó, tôi gặp
D.
*** Anh T. thường hỏi tôi về những chuyện
vụn vặt loanh quanh. Anh sợ tôi đói, khi
không có việc;
Và cả khi có việc, thì anh sợ tôi không vui hay bị áp
bức. Anh
không biết là tôi cũng muốn hỏi anh nhiều
điều, nhưng luôn luôn tìm cách ngăn
lại những lời.
Cũng như tôi lo ngại về sự cô đơn của anh, về lá
gan rượu tàn phá
từ nhiều năm, về những nét nhăn
như dao khắc trên da mặt, về một ngày sẽ thân
cận
với hư vô. Tôi bảo, lúc nào cũng vậy, mọi chuyện
đều OK. “Cô này có biết
nấu ăn món gì không?” “Dạ,
chẳng biết nấu gì cả...” “Thì phải học nấu
đi chứ.” “Thế thì đảng ta chả có ai nấu ăn
được.” “Thì cứ mời anh đi quán thôi.” Những
buổi chiều ngồi bên bờ biển, có khi một mình, tôi
nhìn ra sóng. Nơi đây
nửa thế kỷ trước, người ta
nói là chỗ hải cẩu về tắm mỗi chiều trong vài
tháng mỗi
năm. Bây giờ còn để lại một pho tượng
hải cẩu nằm trên cầu đá. Tôi chỉ cho D.
con hải
cẩu đá, một lần khi gặp lại. “Người ta thích
để lại một cái gì trên dòng thời gian. Bây giờ
người ta không biết
bầy hải cẩu năm xưa ở đâu.
Nhưng họ gọi đây là Seal Beach, và khắc một tượng
đá
cho hải cẩu.” “Có cái gì vượt thắng được
thời gian?” Tôi nhìn D. Hai mươi năm gặp lại. Tôi
tự hỏi có cái gì còn tươi mới? Đôi mắt nhìn
thẳng, tin tưởng vào cuộc đời. Mái tóc ngắn một
lần tôi khen trên phố Lê Lợi vẫn
như giữ nguyên
nếp. Làn da mặt khéo giữ. Nhưng lưng bàn tay đã có
nhiều nếp
nhăn hơn. Tôi muốn nói một câu hơi cải
lương, cực kỳ cải lương, chẳng hạn như tình anh
với
em, nhưng thấy hơi tức cười vì tình tôi với ai
cũng như dường bất tử. “Chẳng hạn như lòng anh
đối với cuộc đời. Không tăng không giảm. Chẳng
hạn như
vậy. Như biển trào, như nước lũ.” Thấy
D. có vẻ im lặng, tôi tìm lời thêm. “Bởi vì
không gì có thể so sánh và vì luôn hiện hữu nên mới
gọi là không tăng không
giảm.” D. giễu thêm, lộ
hai chiếc răng khểnh, dùng đúng ngôn ngữ nhà Phật
tôi ưa xài đầu
thập niên 70. Bấy giờ trời tối
rồi, chỉ còn ánh đèn trên các vai cầu và ánh sáng
trong
mắt nàng. “Và vì không sạch không nhơ, bất
cấu bất tịnh thị cố không trung...” Tôi ôm nàng
và xiết chặt. Bờ vai mềm, hơi ấm trong người nàng
làm dịu lại gió xa
từ biển. “Em là con hải cẩu
của anh...”
*** Anh T. bảo tôi và D. chở anh
ra phi trường. Anh phải đi Seattle thăm vài người
bạn. Khi rời quán Long Phụng Lầu, anh đã say mèm.
Chúng tôi không thích quán này,
nhưng chẳng hề nói cho
anh biết. Đối với những người đã viết hơn 60 tác
phẩm,
tôi không thích nói về những chuyện nhảm nhí
như ăn ở đâu ngon đâu dở. Anh T.
bảo quán này cũng
chỉ được thôi, nhưng khỏi mất công đi đâu
xa. “Cũng chẳng lừng lẫy gì lắm.” Kiểu anh
nói, hoặc có khi. “Chưa ghê gớm vào đâu. Ăn tỉm
sấm chỉ có vào Chợ Lớn là số một. Hồng Kông,
Nhật, Đài Loan gì cũng thua Chợ Lớn mình cả chứ.” D.
lại sợ những món Tàu. Nàng nói nhỏ với tôi. “Mỡ
nhiều kinh khiếp quá.” Tôi thì ngồi ở đâu cũng
được, ăn món gì cũng ngon. Anh T. đi dáng ngả
nghiêng. Tôi mở cửa xe cho anh vào và hơi quan ngại, tí
nữa
anh có đủ tỉnh tìm đúng chuyến bay. Đêm trước,
lúc gần nửa đêm, chúng tôi ngồi
ở Maxwell's, anh T.
nói lung tung với người pha rượu và đi không nổi
nữa. Tội
nghiệp tên kia chẳng hiểu bao nhiêu. Khi anh
đứng dậy đã gần như té ngả vào
những bàn ghế
gần đó. Tôi đã dìu anh vào một ghế ngồi và đứng
vòng tay sau
lưng anh. D. ngồi đối diện anh và chờ.
Nàng vẫn cười như lúc nào. Nụ cười không
đổi
trong trí nhớ tôi. Hiền, ngoan, và lúc nào cũng
vui. “Chúng mày phải ngồi uống luôn tới sáng
chứ.” D. và tôi chỉ im lặng, nhìn nhau cười. Anh
lầu bầu, đầu như sắp gục lên bàn. Khi đưa anh
về, anh nói nhiều về cuộc đời. Anh nói, có lần tôi
bảo thằng pha rượu
là tôi cũng đổ bao nhiêu mồ hôi
mới sống còn được, tôi là nhà văn, nhà báo, cũng
lao động mềm người ra. Tôi đoán là những khi đó,
anh có thể khóc được, nhưng
chưa bao giờ tôi gặp
anh khóc. Đường ra phi trường thì tôi quen lắm. Tôi
phóng như bay, không suy nghĩ. Anh bảo
giọng lè nhè,
phải qua trái tí mới vào 405 South. Tôi không trả lời,
nhưng nghĩ phải
vào mặt mới vào 405 North, đây mới
đúng là lối gần nhất vào phi trường Los
Angeles. Đi
cũng gần nửa đường rồi, sắp tới chỗ giao đường
91. Anh nói gần như gầm lên,
hơi rượu chắc cũng tan
lâu rồi. “Đi sai rồi chứ. Phải đi về 405 South
chứ.” “Anh yên tâm. Đây là lối gần nhất về
phi trường.” “Nhưng ngược chiều rồi. Chúng ta
chỉ cần 15 phút là tới sân bay chứ.” Tôi vẫn rú
ga như bay, nhưng lòng hơi ngờ vực. “Anh nói phi
trường Los hay John Wayne?” “John Wayne chứ.” Tôi
và D. phía sau cố nén cười. Vậy là tôi nhầm phi
trường. “Em cứ tưởng. Anh chờ chút, em quay đầu
ngay tức khắc.” Tôi vòng xe lại, và nghĩ là tôi
say dù hôm đó không uống tí nào cả. D. thấy rõ là
đang cười. “Anh lúc nào cũng cứ như say.” “Ừa,
không bao giờ anh tỉnh nổi.” Khi dừng trước cửa
hành khách, anh nhảy xuống, bước vào, và xua tay đuổi
chúng
tôi về. “Tụi em ngồi với anh một tí.” “Về
đi chứ.” D. phóng lên ngồi cạnh tôi và cười gần
chết. “Tụi mình như những con hải cẩu.” Tôi
vẫy tay chào anh T. và vọt đi. “Ừa, chỉ có một
mùa để đến với cuộc đời, và có thể không một
pho tượng bên cầu.” Tôi nhớ, tôi chỉ mới gặp
D. ba năm nay, nhưng biển đã có từ nhiều triệu năm
rồi.
PTH |