PHẦN
KẾT
Nội
dung quyển sách này chỉ giới hạn ở đoạn phía Đông
của “Con đường Tơ lụa”. Tức từ kinh đô Trường
An thời Hán Đường qua Hàm Dương, men theo Hành Lang Hà
Tây rồi ra Ngọc Môn Quan và Dương Quan, xuyên Tây Vực để
đến địa đầu vùng Trung Á Tế Á.
Thời
cổ đại, các thương đội và lữ hành khi vượt hết
được đoạn phía Đông của “Con đường Tơ lụa”, họ
đều coi như trút được gánh nặng của hành trình. Mặc
dù từ đó nhìn về các thị trường phương Tây vẫn còn
một đoạn đường phía trước, tức vùng Trung Á Tế Á.
Đoạn đường này tuy tương đối khắc nghiệt về khí hậu sa mạc nhưng lại ít khắc nghiệt về địa lý nhân văn, tuy có đi qua gió cát sa mạc nhưng lại không phải qua sông vượt núi gian hiểm nhiều như đoạn phía Đông. Vùng Trung Á Tế Á là cơ địa của các vương quốc Ba Tư (nay là Iran và Irak), Đột Quyết (nay là Thổ Nhĩ Kỳ).. Những cộng đồng dân cư trên sa mạc của các vương quốc này có cự ly cách nhau không quá xa như vùng Tây Vực của đoạn phía Đông. Hơn nữa, họ cũng có quan hệ mậu dịch với Trung Nguyên, nên những thương đội Trung Quốc cũng không gặp nhiều khó khăn khi qua đây.
Đoạn đường này tuy tương đối khắc nghiệt về khí hậu sa mạc nhưng lại ít khắc nghiệt về địa lý nhân văn, tuy có đi qua gió cát sa mạc nhưng lại không phải qua sông vượt núi gian hiểm nhiều như đoạn phía Đông. Vùng Trung Á Tế Á là cơ địa của các vương quốc Ba Tư (nay là Iran và Irak), Đột Quyết (nay là Thổ Nhĩ Kỳ).. Những cộng đồng dân cư trên sa mạc của các vương quốc này có cự ly cách nhau không quá xa như vùng Tây Vực của đoạn phía Đông. Hơn nữa, họ cũng có quan hệ mậu dịch với Trung Nguyên, nên những thương đội Trung Quốc cũng không gặp nhiều khó khăn khi qua đây.
Đoạn
phía Đông của “Con đường Tơ lụa” ngoài hai thành
phố phồn vinh là Trường An và Hàm Dương, Hành Lang Hà
Tây còn là yết hầu quan trọng về cả quân sự lẫn
chính trị và kinh tế. Đó là một dãy dài, hẹp, có màu
xanh trải từ bờ Tây sông Vị đến vùng sa mạc phía Nam
cao nguyên Mông Cổ.
Các
khu vực Âm Sơn, Lũng Sơn, Hà Tây Tẩu Lang và Hà Hoàng
trên Hành Lang Hà Tây đều có những cứ điểm chiến
lược quan trọng, làm bình phong che chắn Trung Nguyên và
bảo vệ sự lưu thông của “Con đường Tơ lụa”.
Những
vùng có khí hậu ôn hòa trải dài các chân núi Âm: Sơn,
Lũng Sơn, Kỳ Liên Sơn (còn gọi Thiên Sơn) và Yên Chi Sơn
là những vùng cỏ nước dồi dào, thu hút cư dân nhiều
bộ tộc ít người, và đã hình thành những cộng đồng
kinh tế nông nghiệp, chăn nuôi rất trù phú.
Những
thành thị nằm dọc Hành Lang Hà Tây như Thiên Thủy, Cam
Châu (nay là Trương Dịch), Túc Châu (nay là Tửu Tuyền),
Lương Châu (nay là Vũ Uy), Sa Châu (nay là Đôn Hoàng)...
Nhờ sự lưu thông của “Con đường Tơ lụa” mà trở
thành những đô thị phồn vinh và là những trung tâm giao
lưu văn hóa kinh tế Đông Tây theo 2 chiều mậu dịch.
Thành phố Đôn Hoàng không những là ngã rẽ và là điểm
hội tụ của 2 Lộ tuyến Bắc Nam mà còn là trung tâm của
2 chiều mậu dịch Đông Tây. Mặt khác, các thương đội
và tăng lữ hành hương khi dừng chân tại Đôn Hoàng để
chuẩn bị xuyên Tây Vực, đều cầu Thần bái Phật phù
hộ cho hành trình, nên từ rất sớm, Đôn Hoàng đã trở
thành trung tâm phát triển cực thịnh của Phật Giáo.
Rời
Đôn Hoàng, các Lộ tuyến của “Con đường Tơ lụa”
đều phải ra Dương Quan hoặc Ngọc Môn Quan để xuyên
Tây Vực. Đó là 2 tòa quan ải yết hầu của “Con đường
Tơ lụa” và của cả nền an ninh Trung Nguyên. Vì muốn
bảo vệ Trung Nguyên và làm chủ tình hình vùng Tây Vực
nhằm giữ an toàn cho huyết mạch giao lưu Đông Tây mà,
ngay từ thời cổ đại, nơi đây đã xảy ra vô số trận
chiến khốc liệt. Đời Hán chiến tranh với Hung Nô và
Đại Uyển, đời Đường chiến tranh với Đột Quyết và
Thổ Phồn... Cho nên 2 tòa quan ải này không những đã để
lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong lịch sử Trung Quốc,
mà còn để lại nhiều hình ảnh tuyệt vời trong thi ca
Biên Tái đời Đường.
Tây
Vực là vùng đất vừa hiểm ác vừa quyến rũ, vừa
hoang sơ vừa thần bí mà, các Lộ tuyến của “Con đường
Tơ lụa” bắt buộc phải đi qua. Đó là vùng đất đã
đưa mặt hàng tơ lụa của Trung Nguyên đến các thị
trường bờ Tây Thế Giới và là huyết mạch giao lưu văn
hóa văn minh Đông Tây. Nhưng đó cũng là nơi chôn vùi
không biết bao nhiêu hành nhân trong gió cát sa mạc.
Thời
viễn cổ, Tây Vực là nơi định đô của hơn 100 tiểu
vương quốc. Tới khi nhà Tây Hán thông sứ Tây Vực thì
nơi đây chỉ còn 36 tiểu vương quốc, gồm khoảng 50
thành trấn lớn nhỏ, phối trí trên các Lộ tuyến của
“Con đường Tơ lụa”. Nhưng qua những thời kỳ biến
thiên, phần lớn diện tích Tây Vực bị sa mạc hóa, cư
dân lưu tán, gió cát chôn vùi nhiều thành trấn. Tới đời
Đường, Tây Vực chỉ còn lại các thành trấn: Y Châu
(nay là huyện Cáp Mật Tân Cương), Đình Châu (nay là Cát
Mộc Tác Nhĩ Tân Cương), Ô Lỗ Mộc Tề và Y Ninh nằm
trên Lộ tuyến mới phía Bắc. Thành Yên Kỳ, Khố Nhĩ
Lặc, Khưu Từ (nay là Khố Xa Tân Cương) và A Khắc Tô
nằm trên Lộ tuyến Bắc. Thành Thạch Thành (nay là Nhược
Khương Tân Cương), Bá TIÊN (nay là huyện Thả Mạc Tân
Cương), Vu Điền (nay là Hòa Điền Tân Cương) và Sơ Lặc
trấn (nay là thành phố Ca Thập Tân Cương) nằm trên Lộ
tuyến Nam của “Con đường Tơ lụa”.
Bồn
địa Tháp Lý Mộc chiếm gần hết diện tích của Tây
Vực và sa mạc Tháp Khắc Lạp Mã Can cũng chiếm gần hết
bồn địa này. Từ sau thời kỳ đóng băng thế kỷ thứ
4 khí hậu bồn địa ngày càng khô kiệt và nhiều gió,
lượng nước mưa hằng năm rất thấp, thậm chí toàn
vùng gần như không có cỏ nước (trừ rừng Hồ Dương
thiên nhiên tồn tại từ thời kỳ bồn địa chưa trải
qua biến thiên).
Nhưng
theo lịch sử ghi chép và nhất là căn cứ kết quả khai
quật những cổ thành Lâu Lan, Y Tuần, Ni Nhã, Cao Xương...
thì bồn địa Tháp Lý Mộc đã từng tồn tại nhiều
vương quốc hùng mạnh. Chứng tỏ bồn địa đã có một
thời kỳ khá dài khí hậu ôn hòa, hình thành nhiều cộng
đồng quốc gia trù phú. Nhưng về sau khí hậu ngày càng
khô kiệt, bồn địa mất nguồn nước băng tan và các
con sông cũng tắt hẳn dòng chảy. Lượng cát trầm tích
từ nhiều thế kỷ trước dần hồi bị sa mạc hóa xua
đuổi cư dân, chôn vùi thành trấn. Bồn địa Tháp Lý
Mộc từ đó trở thành khổ nạn cho các thương đội và
lữ hành trên “Con đường Tơ lụa”.
Hồ
La Bố Bạc nằm mút phía Đông của bồn địa Tháp Lý
Mộc. Hồ này tích tụ nguồn nước lớn của 2 sông Tháp
Lý Mộc và Khổng Tước nên từ thời cổ đại, mặt
nước hồ có diện tích gần 1 vạn km2 (thủy lượng lớn
thứ 2 của Trung Quốc). Nhưng cũng do ảnh hưởng các thời
kỳ biến thiên, mực nước hồ cạn dần và đến nay thì
khô kiệt hẳn. Bờ Tây hồ La Bố Bạc là nền xưa của
vương quốc Lâu Lan, nằm giữa 2 Lộ tuyến Bắc Nam của
“Con đường Tơ lụa”. Tất cả 3 Lộ tuyến đều phải
đi qua bồn địa Tháp Lý Mộc, nên khu vực này đã trở
thành bản lề giao thông trọng yếu của “Con đường Tơ
lụa”.
Từ
thế kỷ thứ 4 trở đi, kỹ thuật Dâu Tằm Tơ dần hồi
được truyền bá qua một số nước vùng cực Tây Tây
Vực. Những năm khai quốc Đường triều xã hội ổn
định, kinh tế phát đạt, các thành thị Kim Mãn Thành
(xưa là vương quốc Xa Sư Tiền Vương Đình), Vu Điền
(xưa là vương quốc Cù Tát Đán) và Tây Châu (xưa là
vương quốc Cao Xương) là 3 thủ phủ tơ lụa nổi danh
của vùng Tây Vực. Mặt hàng tơ lụa từ các thủ phủ
này chuyển đến thị trường phương Tây đã rút ngắn
được Hành Lang Hà Tây và một phần đường Tây Vực.
Nhưng “Con đường Tơ lụa” từ đó cũng biến thành
huyết mạch giao lưu văn hóa văn minh Đông Tây.
“Con
đường Tơ lụa” trên lý thuyết tồn tại 17 thế kỷ,
nhưng thực tế có 1 thế kỷ gián đoạn (CN 763-CN 866).
Năm Thiên Bảo 14 Đường Huyền Tông (CN 755), vì loạn An
Sử, triều đình điều hết quân tinh nhuệ về nội địa
dẹp loạn. Thổ Phồn thừa cơ đem quân tấn công Lương
Châu. Đến năm Quảng Đức thứ 2 Đường Đại Tông (CN
763), quân Thổ Phồn chiếm lĩnh toàn bộ khu vực Hà Hoàng
và “Con đường Tơ lụa” cũng tắt nghẽn từ đó. Năm
Đại Trung thứ 2 Đường Tuyên Tông (CN 848), nhân Thổ
Phồn có nội loạn, Trương Nghĩa Triều lãnh đạo nghĩa
quân đánh đuổi Thổ Phồn. Cuộc khởi nghĩa kéo dài đến
năm Hàm Thông thứ 7 Đường Ý Tông (CN 866), Trương Nghĩa
Triều tái chiếm toàn bộ khu vực Hà Hoàng và tái khai
thông “Con đường Tơ lụa”.
“Con
đường Tơ lụa” được khai mở từ mối lợi của các
thương nhân nhưng, hoàn chỉnh trong vai trò lịch sử trọng
đại. Đây không chỉ là con đường mậu dịch buôn bán
Đông Tây thời cổ đại mà, còn là huyết mạch giao lưu
chính trị, tôn giáo, văn hóa văn minh giữa Trung Quốc với
vùng Trung Tây Á và cả các nước Châu Âu. Trong lịch sử,
“Con đường Tơ lụa” ảnh hưởng sâu đậm đến mối
quan hệ giữa Trung Quốc và phương Tây, và là tổng hợp
tinh hoa, thúc đẩy phát triển văn minh nhân loại. Huyết
mạch này tồn tại suốt 17 (thực tế chỉ có 16) thế
kỷ, khi nhân loại chưa phát triển đường hàng hải.