văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Thursday, June 13, 2013

MINH NGUYỄN * về với biển Tuy Hòa

Lâm Triết

Sau mấy ngày bay nhảy ở vùng biển Nha Trang, tôi bị người đẹp chân dài tên Nhã, từ Lạng Sơn bay vào Sàigòn trốn nắng, khích tướng: “Sao anh không tiếp tục làm chuyến xuôi ra miền Trung ghé thăm xứ ‘nẫu’ ở cách xa đây không quá một ngọn đèo”?
Ôi trời! Đáng ngạc nhiên chưa, con gái ở tận vùng cao biên giới phía Bắc, biết đến xứ “nẫu” mới là chuyện lạ? Theo dân địa phương “nẫu” là tiếng nói đặc trưng của họ dùng để chỉ người ta ( nẫu = người ta). Cũng như xứ nẫu, dùng để chỉ miền đất nằm dọc theo ven biển Nam Trung Bộ, mang tên Tuy Hòa - Phú Yên; đặc biệt, còn là nơi đón ánh bình minh sớm nhất trên đất liền, nằm về phía cực Đông của đất nước.

Theo địa phương chí, ngay sau khi tái lập tỉnh Phú Yên tách ra từ tỉnh Phú Khánh thì, thành phố Tuy Hòa vốn tưởng lạ mà quen, sơ ngộ mà thâm giao; bỗng trở thành điểm đến quan trọng trên bản đồ du lịch nổi tiếng khắp cả nước. Bởi đây là vùng đất được tạo hóa ban tặng cho một hệ thống cảnh quan thiên nhiên vô cùng hùng vĩ, thơ mộng, độc đáo nhờ có núi non, cao nguyên, đồng bằng châu thổ, sông, suối, hồ, ao, vịnh, hải đảo . . . làm say đắm bao hồn người qua các địa danh núi Nhạn, Chóp Chài, vịnh Vũng Rô, đầm Ô Loan, ghành đá Đĩa . . .
Chỉ nghe qua thôi đủ thấy hấp dẩn; huống chi tận mắt chứng kiến thành phố xinh đẹp yên bình, chưa phải vội vã bon chen vì cuộc sống, ăn các món hải sản tươi rói, uống ly cà phê pha chế với công thức bí truyền ở Tùng, Thanh Lâm hay Cổ Gia Trà. . để thấy cuộc sống đáng sống hơn.
Bị tự ái dồn dập, tôi đi lấy xe rồi hối Nhã ngồi lên yên sau, chạy ào qua Đại Lãnh, thưởng thức món cháo mực ngon tuyệt cú mèo, trước khi leo đèo Cả dài 12 cây số không mấy hiểm trở so với những cung đường mù sương đầy cua tay áo trên vùng Đông-Tây bắc. Vậy mà, không hiểu vì sao các tay lái phía Nam gọi đó là sự thách thức?
Đang phom phom chạy lên đèo, tôi nghe tiếng Nhã cảnh báo từ phía sau lưng:
- Anh! Coi chừng có biển báo đoạn đường nguy hiểm.
- Yên chí, chẳng phải em từng gọi anh là “tay lái lụa Saigòn” sao, nếu sợ cứ mượn tạm cái bụng anh, không phải trả tiền thuê đâu mà sợ.
Chúa ơi, không phải nhắc tới lần thứ hai, đã thấy Nhã vòng tay ôm lấy bụng tôi. Khỏi phải nói, chắc bạn thừa biết cảm giác sướng rơn trong tôi như thế nào rồi. Quả là tuyệt vời. Nhờ chút hơi ấm từ người đẹp, tôi bất chấp đoạn đường đèo nguy hiểm, với một bên là vách đá dựng đứng một bên là vực sâu, lao tới. Cùng lúc, phát hiện trên đỉnh núi xa xa hòn đá to mọc trên đỉnh núi mang hình ngón tay chỉ trời, được các nhà hàng hải phương Tây gọi Ledoigt de dieu; người Champa gọi vật thiêng Lingaparvata; dân địa phương gọi Hòn Vọng Phu. Thực tế, có tới hai hòn đá hoa cương ở canh nhau, dân chúng nhìn vào đó mà thi vị hóa thành người mẹ bồng con đứng chờ chồng đi chinh chiến trở về, hoặc có người gọi đó là núi Ông hay Thạch Bi Sơn, hay núi Đá Bia trong chuyện vua Lê Thánh Tông khi tiến quân đến đèo Cả, đã sai quân lính lên núi khắc hàng chữ “ Chiêm Thành quá thử binh bại quốc vong. An Nam quá thử tướng trụ binh chiết”, đánh dấu ranh giới giữa hai nước Đại Việt và Chiêm Thành (*)
Chạy được một lúc, Nhã kêu tê chân, năn nỉ tôi dừng xe nghỉ một lát. Tôi tìm chỗ an toàn, thả cô xuống chỗ mấy bác tài đang tận dụng nguồn nước đổ từ trên núi xuống, rửa xe tẩy trần mọi dơ bẩn. Nhìn quanh, tôi thấy tấm bảng phân chia địa giới cắt ngang qua dãy núi Đại Lãnh, nơi được chọn làm điểm cắm mốc phân chia hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên.
Vừa bước xuống xe, Nhã làm quen với anh thanh niên đứng cầm vòi xịt nước trên tay:
- Anh ơi! Trên núi cao có cả giếng nước ngầm ư?
Anh thanh niên vốn là “hai lúa” chính hiệu, hồn hậu trả lời:
- Nước thiên nhiên từ trên núi đổ xuống, bọn tôi chỉ việc nối các ống ngầm là có nước để rửa xe. Đặt biệt, nước ở đây ngọt mát, không tin cô rửa mặt và uống thử vài ngụm sẽ biết.
Nhã bước tới, khum khum hai bàn tay hứng lấy nguồn nước uống, rửa mặt, rồi khen .
- Quả thật nước ngọt mát như lấy từ tủ lạnh ra.
Anh thanh niên chỉ tay lên phía trên nói:
- Cô đi quá lên vài chục mét cũng sẽ gặp một số vòi nước giống như ở đây vậy.
- Sao người ta không nghĩ tới chuyện tiết kiệm nguồn nước nhỉ?
- Để làm gì? Không dùng cũng bỏ thôi.
Trong khi Nhã bận “tám” với anh thanh niên, tôi đứng quan sát cái vịnh tuyệt đẹp nằm ở hướng Đông Nam. Từ trên đèo cao nhìn xuống, vịnh như một hồ nước xanh ngắt được che chắn bởi bán đảo hình đầu chim đại bàng cùng với chiếc mỏ khoằm nhô lên trên mặt nước. Nghe kể, trước đây nơi này mọc ken dày cây cóc kèn, ô rô, nên giới bình dân gọi luôn là vịnh Vũng Rô. Ngày nay, sau chiến tranh, vịnh được phát triển thành nơi nuôi trồng tôm hùm, được giới nhà giàu rất ưa chuộng. Thích quá, vì chưa biết tôm hùm như thế nào, tôi bèn chở Nhã chạy quá lên 3 cây số, tới ngã ba có tấm bảng chỉ đường rẽ vào cảng Vũng Rô. Tưởng gần, hóa ra tôi phải chạy thêm 12 cây số đường ngoằn ngoèo bên những rừng thông lẫn khi hậu mát mẻ không thua gì Đà Lạt.
Kia rồi, cái quán hải sản thiết kế một phần nhô ra biển như gọi mời. Đúng là một nơi chốn tuyệt vời để thưởng thức món ốc “vú nàng” nướng trên vĩ than hồng sực nức mùi mỡ hành, kể cả món tôm hùm quí tộc nướng bơ tỏi thơm điếc mũi . Theo sự PR của cô chủ quán, tôm hùm được nuôi bằng những chiếc lồng sắt cở 3x3x1,4 mét, được phủ sơn để tránh hàu con đeo bám. Lồng phải đặt trên mặt cát hay san hô, nơi ít tàu thuyền qua lại. Hằng ngày tôm được cho ăn 2 bữa sáng, tối với thức ăn là tôm tép nhỏ, cá, cua vụn tươi sạch. Vừa nói cô vừa chỉ tay về phía những chiếc lồng chưa dùng đến, vất bỏ rải rác ven đường.
Ăn xong món tôm hùm béo ngậy bơ, tôi tiếp tục chở Nhã chạy theo con đường lớn, về Mũi Điện hay mũi Đại Lãnh hay Cap Varella, ở cách xa chừng vài cây số. Nghe nói, đến Tuy Hòa mà không ra Mũi Điện là một thiếu sót lớn, giống như ăn gà luộc thiếu lá chanh vậy?
Đến nơi, tôi gửi xe vào quán cơm duy nhất gần đó, để sau khi leo núi xuống, có chỗ nghỉ ngơi ăn uống. Đặt tạm vài món thức ăn ghi trong thực đơn xong, tôi dắt Nhã vượt qua chiếc cổng có cây chắn bỏ chỏng trơ thay cho người canh gác. Cô tỏ ra ái ngại khi nhìn thấy tấm biển hù dọa “không được phép vượt qua “. Thế nghĩa là sao? Cuối cùng cô cũng lấy hết can đảm theo tôi bước qua hàng trăm bậc thang xi măng, dẩn lên một bên là rừng dứa dại cao lêu nghêu trên đầu, một bên là Bãi Môn rực rỡ màu nắng và màu cát trắng bên dưới. Những tưởng, khi lên đến Mũi Điện sẽ chẳng gặp một bóng người, nào ngờ ở trên núi đã có rất nhiều du khách đến trước, đang chờ các anh lính biên phòng hướng dẩn leo lên chiếc thang xoắn trôn ốc lên thăm tháp hải đăng. Tôi và Nhã ngại leo cao, chỉ đi loanh quanh ở khu nhà làm việc, chờ đám khách tham quan tháp trở xuống, cùng lội bộ ra cột mốc đánh dấu nơi cực Đông Tổ Quốc.
Đường đi ra Mũi Điện hiểm trở, vì phải men theo lối mòn dốc lên dốc xuống với đầy đá tảng chắn ngang lối đi. Tôi có cảm tưởng như vừa đì vừa bị bàn tay vô hình ai đó, đẩy từ phía sau lên phía trước, nếu không chú ý quan sát dễ bị ngã bổ vào nhau như chơi. Nhờ đươc cảnh giác truớc, Nhã bám sát theo tôi như hình với bóng. Vậy mà chỉ trong một lúc sơ sẩy, cô bị mất đà ngã chúi vào người tôi từ phía sau. Chưa kịp tận hưởng hết mùi thơm da thịt con gái, tôi đã nhìn thầy cái ghềnh đá nhô ra tận biển cùng cái cột ốp đá ceramit màu đỏ, với đôi cánh bay hương lên trời, mang dòng chữ: Mũi Điện ( Mũi Đại Lãnh ) - Nơi đón nhận ánh bình minh trên đất liền đầu tiên ở cực đông Tổ Quốc.
Trong lúc mọi người tranh nhau tạo dáng đứng ghi hình bên cột mốc, tôi đưa Nhã đến ngổi nghỉ chân ở ngôi nhà hình bát giác, lắng nghe tiếng gió thổi vù vù làm rối tung mái tóc. Nhân tiện lấy ra 2 chai nước mang theo, một đưa cho cô còn một của tôi. Hết mệt, Nhã tươi cười ghé tai tôi rủ: “Mình mau trở xuống Bãi Môn chiếm lĩnh bãi tắm tuyệt vời, trước khi số đông người kịp xuống làm náo động. Như thế, chúng ta mới được tự do vẫy vùng trong làn nước tinh khiết, chờ đến khi cơn đói cồn cào đến ăn mới thấy ngon”.
Tắm biển, cơm nước xong xuôi, tôi chở Nhã chạy tiếp theo cung đường mới mở Hòa Hiệp - Phước Tân - Bãi Ngà về thị xã Tuy Hòa. Cung đường tuyệt đẹp nhờ những bãi cát trắng phau nối đuôi nhau trải dài qua các bãi biển, cụm dân cư giàu có một thời Đà Nông, về tới khu công nghiệp Nam Tuy Hòa. Một trọng điểm kinh tế của tỉnh Phú Yên, hứa hẹn sẽ mang lại mùa sống phong phú cho người lao động nghèo khó, có công ăn việc làm nuôi sống gia đình. Tuy nhiên, công việc xây dựng dù chưa hoàn tất nhưng cây cầu thứ 3 bắc qua cửa sông Ba hiền hòa nối vào trung tâm thành phố, đã được đưa vào xử dụng từ lâu, và được xem là niềm tự hào chung của người dân thị xã; nhất là đêm đêm có nhiều đôi thanh niên nam-nữ ghé về đây sinh hoạt vui chơi đông như đi trẩy hội.
Và đây rồi, trước mắt tôi là con đường Trần Hưng Đạo rộng thênh thang, vắng xe cộ lẫn bóng người qua lại, làm nổi bật 2 ngọn núi Nhạn, núi Chóp Chài trên trần mây. Được biết, đây là biểu tượng đáng yêu của “xứ nẩu” Tuy Hòa - Phú Yên.
Trao đổi với Nhã xong, tôi quyết định chọn con đường đi vào trung tâm thành phố ghé về Núi Nhạn; thay vì chạy dọc theo đường Độc Lập, rợp mát những hàng phi lao xanh ngút ngàn.
Từ dưới chân núi tôi và Nhã lội bộ trên con đường nhựa ngoằn ngoèo, mất hơn nửa giờ đồng hồ mới lên tới đỉnh. Đang đổ mồ hôi ướt đẳm sống lưng, nhưng vừa trông thấy mảng cây cối xanh mởn quanh đây, khiến cho cái nóng trong tôi tự nhiên biến đi đâu mất tiêu. Ở trên đây, ngoài những bóng cây tạo bóng mát ra, khu di tích cổ Champa là ngọn tháp duy nhất còn hiện diện trên đất Tuy Hòa. Ngọn tháp chia làm 4 tầng, mỗi tầng khi xây lên cao hơn được thu nhỏ thêm ở phần chóp, nhìn rất giống với lối kiến trúc của tháp Ponaga ở Nha Trang. Cấu trúc tháp có hình tứ diện, tọa lạc sừng sửng trên đỉnh núi bằng phẳng, mang đầy tính nghệ thuật trong diêu khắc và kiến trúc cổ Champa. Để tìm hiểu, tôi bước hẳn vào bên trong quan sát, nhưng đảo mắt nhìn quanh chẳng thấy bệ thờ hay tượng thờ gì cả. Nghe kể: “ tàu chiến thực dân Pháp chạy ngoài biển, nhìn thấy ngôi tháp cứ tưởng là pháo đài nên đã nả pháo vào đất liền làm đổ cả 3 góc trên phần đỉnh”, do đó có nghi vấn cho rằng việc bắn phá dẩn tới việc làm biến mất bệ thờ và tượng thờ?
Trên đường trở xuống tới lưng chừng núi Nhạn, tôi chỉ Nhã cây cầu sắt dài nhất miền Trung có tên Đà Rằng, do Pháp xây dựng vào đầu thế kỷ 20, gồm 21 nhịp, chạy song song với đường xe lửa Bắc-Nam. Cây cầu được bắc qua đôi bờ sông Ba, kết hợp với núi Nhạn tạo nên quang cảnh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng trên dãi đất miền Trung.
Rời núi Nhạn, tôi chạy xe ra quốc lộ 1A, hướng về ngọn Chóp Chài cách xa thành phố Tuy Hòa 4 cây số. Từ xa, tôi đã phát hiện ra cột anten của đài truyền hình Tuy Hòa nằm trên đỉnh núi Chóp Chài, chắn lấy lối đi trước mặt. Tôi chợt nhớ câu ca dao “Chóp Chài đội mũ/ Mây phủ Đá Bia/ Ếch nhái kêu lia/ Trời mưa như đổ”. Thì ra núi Chóp Chài hay còn gọi Nựu Sơn, là một trong hai đài khí tượng tự nhiên nằm cạnh cánh đồng lúa phì nhiêu Tuy Hòa.
Nhanh chóng gửi xe ở quán nước dưới chân núi, tôi dắt tay Nhã dung dăng dung dẻ đi lên, đến lưng chừng núi chúng tôi ghé thắp nhang ở chùa Hòa Sơn, Minh Sơn, Khánh Sơn, Bảo Lâm rồi đi tiếp lên hang dơi Trai Thủy. Đây là một cái hang rộng và sâu, thích hợp cho việc xây dựng ngôi chùa Hang khá độc đáo, bằng cách biến những tảng đá lớn dựng đứng làm vách, cái bằng phẳng làm mái che, che luôn phần hành lang dẩn tới chánh điện.
Hòa trong tiếng chuông ngân nga, tôi bước tới quì cạnh Nhã trước bàn thờ Phật, cố ý khấn to cho cô nghe: “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Xin ngài cho con với cô gái đang quì bên con, yêu nhau cho đến lúc răng long đầu bạc“. Kết quả là tôi bị xô ngã cùng với giọng nói thẹn thùa “Không dám đâu em còn phải học bài” (**).
Rời Chóp Chài đã đến giờ nghỉ ngơi ăn cơm chiều rồi, tôi vội phóng xe chạy về bờ kè Bạch Đằng. Nơi dân sính ăn, khen không tiếc lời về các món hải sản tươi ngon mà giá cả lại khá mềm.
Đảo một vòng thăm dò tình hình, cuối cùng tôi ghé vào quán có đông thực khách nhất, kinh nghiệm dạy tôi “quán nào đông khách ngồi ăn uống chắc chắn ngon mà không sợ bị ăn đồ cũ, đổ thừa”.
Trong lúc chờ Nhã “quần thảo” chán chê trên thực đơn, tôi lơ đảng nhìn những chiếc thuyền đánh cá neo đậu san sát trên bến. Nghe đâu, chúng có khả năng đánh bắt xa bờ đến 200 hải lý, ở những vùng biển sâu tận ngoài đảo Trường Sa, Côn Đảo, Phú Quốc . . . mỗi năm mang về cho Phú Yên hàng ngàn tấn cá ngừ đại dương. Loại “cá bò gù” cõng trên lưng chiếc gù và thịt đỏ như thịt bò; ngoài ra, Phú Yên còn được biêt là nơi khởi đầu nghề câu cá ngừ đại dương. Theo các lão ngư, nghề câu xuất phát do ngư dân tình cờ vớt được những đoạn dây câu bị đứt trôi dạt vào bờ. Khi kéo dây lên tìm hiểu, thấy có mấy con cá bò gù bị mắc câu. Từ đó, các ngư dân cải tiến rồi làm ra những vàng câu dài hàng chục hải lý, gắn từ 600-800 lưỡi câu. Mới đầu, cá bò gù thu hoạch không được người dân ưa chuộng, vì trông giống cá ông linh thiêng mà người dân vùng biển rất tôn thờ. Sau đó, đi tìm hiểu trên Internet mới biết loại cá ngừ này rất được thế giới ưa chuộng, có giá trị kinh tế cao, xuất khẩu thu về nhiều ngoải tệ..
Qua câu chuyện này, tôi nhớ anh bạn từ nước ngoài đi du lịch Tuy Hòa về kể lại. Nghe nhà hàng giới thiệu đặc sản cá “bò gù” chấm mù tạt xanh, cá bò gù nướng chấm muối ớt, lườn cá bò gù xào sa tế, đầu cá bò gù nấu cháo, lòng cá bò gù làm gỏi, mắt cá bò gù chưng cách thủy . . . hấp dẩn quá, anh bạn gọi thử món cá bò gù tươi chấm mù tạt. Khi món ăn được dọn lên bàn, anh mới biết món này ở Mỹ người ta gọi là Yellowfin tuna, Bleufin hay còn gọi là cá ngừ đại dương. Có điều, ở Mỹ người ta chỉ ăn phần thịt phi lê, còn đầu đuôi, lòng gan đều bỏ đi. Người Việt có tuổi nghề đi biển, đã lợi dụng phần bỏ đi này mang về chế biến ra những món ngon vào loại quốc hồn quốc túy: đầu cá ngừ nấu lẩu, mắt cá ngừ tầm thuốc Bắc, gỏi lòng cá ngừ . . . chỉ dành đãi bạn bè thân thiết.
- Cho một bình rượu Quán Đế. Tôi quay qua nói với cô tiếp viên xinh đẹp đứng chờ.
- Đó là loại rượu gì ạ? Cô tiếp viên ngây người ra hỏi.
- Ủa! Dân Tuy Hòa mà không biết rượu Quán Đế mới lạ?
- Em là dân Nha Trang mới ra đây làm thôi.
Đây là rượu mà cánh lái xe đường dài Bắc-Nam, mỗi khi dừng chân nghỉ ngơi ăn uống ở đoạn mười lăm cây số trên quốc lộ 1A, đoạn qua địa phận thị xã Sông Cầu, hay còn gọi “ngã ba sung sướng” truyền tụng nhau. Theo tiết lộ, ở Phú Yên không chỉ có món cá ngừ đại dương, mà còn có nhiều loại hải sản quí hiếm như sò huyết Ô Loan, chất lượng dinh dưỡng cao, giúp quí ông mau phục hồi sức khẻo; riêng món cá ngựa Sông Cầu nổi tiếng không đâu sánh bằng, vì ở đây có nhiều vịnh, gành, đầm, phá, thuận tiện với môi trường sinh sống của loài này. Theo kinh nghiệm dân gian, cá ngựa, lá dâm dương hoắc, 7 con bửa củi nướng chín, ngâm chung với rượu, cho ra loại thần dược dành cho quí ông. Ngược lại, dân Phú Yên có bài thuốc cổ truyền mang ngâm chung với rượu Quán Đế, cho ra loại rượu dân lái xe quen gọi “ông uống bà khen”?
Lai rai xongmấy món nướng -chiên -xào, nhà hàng dọn tiếp dĩa rau ghém thái sợi cùng hai cái thố rờ nóng đến bỏng tay. Lạ. Mở nắp thố, ngửi thây mùi cá lẫn trong vị thuốc bắc thơm ngào ngạt. Nhìn bên trong thấy nguyên con mắt đen to cở trái banh tennis. Tôi cầm muổng húp từng ngụm nước dùng, nghe cay nồng đầu lưỡi, ăn tiếp miếng sụn nghe kêu sừn sựt dưới răng, cảm nhận vị béo ngậy tứa ra trong miệng của món “đèn biển”. Thảo nào, cậu học sinh cấp ba nghe giới thiệu món mắt cá ngừ ngon-bổ-khỏe, chơi liền một hơi hết 3 thố ngon ơ, đêm về bị nổi ngứa khắp người, phải gọi xe chở đi bệnh viện cấp cứu.
Khuya. Có người mách tôi nên đưa Nhã đến vui chơi ở vũ trường Thuận Thảo hoặc đi thang máy lên tầng 17 khách sạn Cendeluxe uống cà phê, ngắm vẻ đẹp thành phố ở trên cao. Cám ơn, bọn tôi ai nấy đều đã thấm mệt sau một ngày rong chơi, nên chỉ ghé ra quảng trường 1 tháng 4 hóng gió, ăn thịt xiên que, nghe tiếng sóng biển vỗ rì rào cho tới tận khuya lơ khuya lắc mới quay về khách sạn ngủ. Hẹn sáng hôm sau thức dậy sớm, chạy đến ghành đá Đĩa chụp ảnh, tắm biển Long Thủy, thưởng thức sò huyết Sông Cầu, rượu gạo Qui Hậu nức tiếng Phú Yên . . . trước khi kết thúc chuyến đi biển lần này.
Đúng hẹn, ăn sáng xong tôi lấy xe chạy ra quốc lộ 1A, xuôi hướng Bắc đến thị trấn Chí Thạnh, tình cờ phát hiện nhà thờ Mằng Lăng nằm cuối con hẻm cụt. Mừng hết biết, vì trước khi ra Phú yên tôi nghe nói nhiều về nhà thờ cổ nhất-nhì đất nước, do cha Joseph de Cassagne làm giáo xứ đầu tiên. Sở dĩ nhà thờ có tên Mằng Lăng do trước kia ở đây mọc rất nhiều loại cây có hoa nở thành chùm màu tím, giống như hoa bằng lăng nên dân địa phương gọi luôn là Mằng Lăng. Nhà thờ xây dựng vào năm 1892 theo lối kiến trúc Gothique, gồm nhiều hoa văn trang trí giản dị nhưng không thiếu phần tôn nghiêm. Ngày nay, sau hơn 120 năm, nhà thờ từ màu trắng đã chuyển sang màu xám rêu phong cổ tích. Điểm cao nhất nhà thờ là 2 tháp chuông, bảo vệ cho cây thập tự giá ở chính giữa thấp hơn so với gác chuông. Từ ngoài cổng bước vào, là một khuôn viên thoáng mát với nhiều bóng cây xanh. Trên mô đất cao nằm về phía tay trái có tượng thánh André Phú Yên, mà ngay bên dưới là một hầm mộ nhân tạo xây dựng rất công phu. Bước vào trong hầm, thấy treo nhiều hình ảnh nhà thờ trong thời kỳ đầu xây dựng, những bức phù điêu nói về Á Thánh André Phú Yên, tử nạn khi mới 19 tuổi (1625-1644), chân dung giáo sĩ Đắc Lộ - Alexandre de Rhodes (1593 – 1660), quyển giáo lý “Phép Giảng 8 Ngày” in tại Roma bằng chữ quốc ngữ, gìn giữ trang trọng trong chiếc lồng kính.
Rời nhà thờ, tôi chạy xe đến làng An Thạch ngắm đập Tam Giang dài 800 mét, chắn ngang sông Ngân Sơn hay sông Cái. Đây là công trình thủy lợi quan trọng, cung cấp nước cho cả đồng bằng rộng lớn Tuy An.
Đến nơi, tôi dựng xe bên đường trong khi Nhã đứng khen cái nhà thờ nằm lẻ loi bên kia đập đẹp như tranh vẽ, quên chứng kiến cảnh người ta chạy xe qua lại trên mặt đập trơn trợt như làm xiếc. Không dấu được sự tò mò, Nhã men theo bờ dốc đi xuống dưới đập, dõi theo bóng người đàn ông đang lom khom, lật lên từng bụi lá tìm kiếm thứ gì đó. Thấy lạ, tôi hỏi người dân đứng sát bên:
- Anh ta tìm gì vậy?
- Săn cá chình giống.
- Chình sông hay biển?
Người này giải thích:
- Hàng năm, cứ mùa mưa đến, cá chình từ sông bơi ra cửa biển đẻ, sau đó chình con vượt lũ lên đầu nguồn sinh sống. Ban ngày, cá chình nằm yên dưới bùn hay trong hang, đêm đến chúng mò ra kiếm ăn bằng cách bơi ngược dòng lên đầu nguồn, gặp sự cản trở từ chiếc đập chúng tập trung lại thành từng đàn, chờ con nước lớn sẽ vượt qua. Nắm bắt qui luật ấy, cứ đến mùa mưa dân chúng tập trung về đây đông như ngày hội.
- Mùa nào mới là mùa của chình?
- Bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 2 âm lịch, thời gian đó cá nhiều vô kể, mỗi đêm người ta thu về đôi ba triệu đồng là thường. Vì thế, dân chúng quanh vùng lôi kéo nhau về đây có lúc lên đến 300-400 người. Cá chình to cở cây kim biết cử động, có khi to bằng đầu đủa. Dụng cụ xúc cá rất đơn giản, ít tốn kém, chỉ cần một tấm lưới mùng dài 2 mét, ngang 1 mét, hai đầu được đính vào hai thanh gỗ tròn do 2 người kéo căng 2 đầu. Khi xúc cá, một người khom một đầu lưới xúc cá rồi kéo lên, người còn lại chỉ việc soi đèn pin, thấy có cá thì dùng chiếc vợt nhỏ xúc bỏ vào thùng.
Nghe thú vị, Nhã đòi ở lại đêm để cùng tham gia đi xúc cá chình ở đập Tam Giang. Tôi khuyên cô không nên bỏ lở chuyến đi tiếp đến ghành đá Đĩa, ngắm vẻ độc đáo cùng sự kỳ thú của những khối đá bị xô lệch bởi bàn tay tạo hóa, sau đó qua Long Thủy tắm biển kẻo hết ngày.
Phải năn nỉ mãi, Nhã mới chịu rời đập Tam Giang trong sự tiếc nuối, đi ra ghành Đá Đĩa ở cách đấy không xa.
Mua vé qua cổng, đi bộ một quảng ngắn đã đến gành Đá Đĩa. Đứng từ trên nhìn xuống bên dưới, thấy xuất hiện nhiều cột đá đen bóng hình tròn, hình lục giác xếp chồng khít bên nhau, nhìn chẳng khác những chồng đĩa được sắp xếp cẩn thận. Để khám phá sự kỳ thú, tôi dắt tay Nhã lần theo đường mòn dốc đứng xuống tận bên dưới để cảm nhận cho hết vẻ đẹp của thiên nhiên. Bất ngờ, cô bị trượt chân bên những lõm nước đọng lại thành trũng, ngã vào vòng tay tôi đang dang ra đón chờ. Ôi! Chưa có hạnh phúc nào tuyệt vời hơn bằng lúc này. Mùi ngai ngái mặn mòi hương vị biển, mùi da thịt thơm tho con gái, thay nhau xộc lên mũi làm đảo điên tâm hồn kẻ si tình.
- Cám ơn anh. Nhã nói trong khi hai má ửng hồng.
Tôi đùa:
- Cám ơn gì chứ. Lời cầu xin ở chùa Hang của anh đã được Đức Phật nghe thấy?
Nhã vừa mắc cở vừa nhéo mạnh hông tôi một cái, nói:
- Quỉ tha ma bắt nhà anh đi.
Chưa kịp lấy lại sự thăng bằng, Nhã vừa quay lại đã thấy một con sóng to ập đến ngay dưới chân. Sợ quá, cô ôm chặt lấy tôi cho khỏi bị ngã, đồng thời tránh những giot nước tung tóe bắn lên người.
Tôi giữ lấy thân hình cháy bỏng của Nhã trêu:
- Thấy chưa, ông trời muốn em rời Lạng Sơn vào Saigòn làm dâu nhà anh đó.
Để chửa thẹn, Nhã bạo gan hỏi:
- Dám không? .
Bỏ qua sự ngượng ngùng trước đó, Nhã vui vẻ đứng tạo dáng bên vách đá đen tuyền, cho tôi chụp vài tấm ảnh để cô mang về khoe với gái Hà Nhì, có búi tao cao như quả đồi con trên đỉnh đầu trông thật ngộ nghĩnh.
Theo các nhà địa chất học, ghành Đá Đĩa là hiện tượng phun trào từ đá bazan của núi lửa cao nguyên Vân Hòa cách nay 200 triệu năm. Trước tiên, nham thạch trào ra biển, thình lình gặp nước lạnh đông cứng lại; đồng thời xảy ra sự ứng lưu gây những nứt rạn theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang, tạo cho Phú Yên một cảnh quan kỳ thú và độc đáo về địa chất ở Việt Nam.
Để kết thúc chuyến đi thăm xứ “nẩu” Tuy Hòa - Phú Yên, tôi đưa Nhã chạy theo cung đường rợp bóng dừa xanh đến bãi biển Long Thủy hay còn gọi là Mỹ Á. Một bãi biển nguyên sơ tìm ẩn biết bao điều thú vị đang chờ đợi con người phám phá.
Ai về Mỹ Á chi lâu.
Để em ôm chiếc thuyền câu đợi chờ”.
Ôm chiếc thuyền câu đâu chẳng thấy, chỉ thấy mấy chiếc ghế bố du lịch bỏ trống nơi bãi vắng. Nhã không đợi dừng xe lại, cô lao nhanh đến chiếc ghế bố đôi, ngã người ra tận hưởng những cơn gió mang hương vị biển thổi rạt rào trên mái che bằng lá, nhấm nháp từng ngụm dừa ngọt lịm không đâu bằng dừa Long Thủy.
Tôi nằm cạnh Nhã, nhắm hờ đôi mắt và duỗi dài đôi chân trên cát. Loáng thoáng nghe bên tai tiếng chào mời mua bánh tráng Hòa Đa, nước mắm Ghành Đỏ, cá ngựa Vũng Lắm, mực khô Phú Câu . . . mang về làm quà.
Không biết Nhã thế nào, riêng tôi gọi món sò huyết đầm Ô Loan, ghẹ Sông Cầu, cháo hàu Tuy An . . . uống với ly rượu gạo Qui Hậu để nhớ mãi cái “xứ nẫu” thân thương qua chuyến đi này. /.
MINHNGUYỄN

(*) Sách NNPY của NĐT
(**) Nhạc NVH