Thanh Trí |
Từ
lâu ở phía nam kinh thành Thăng Long, Vũ Sinh nổi tiếng là
người có cách kể chuyện truyền kỳ hấp dẫn,lôi cuốn.
Với kiến thức uyên bác,sâu rộng Vũ Sinh đã biến những
câu chuyện trong tích xưa,truyền thuyết mà ai cũng biết
thành những câu chuyện mới mẻ tân kỳ, những lời nhận
định sâu sắc không làm nhàm chán người nghe.Thật ra Vũ
Sinh không phải họ Vũ mà là họ Đào, xuất thân từ gia
đình phường hát quê Thanh Hóa, cha mẹ thấy chàng thông
minh, sáng dạ nên gửi gấm chàng cho một thầy đồ nổi
tiếng trong vùng giảng dạy.Năm mười sáu tuổi thơ phú
của chàng thiếu niên họ Đào nổi tiếng một vùng.
Nhưng theo qui định của triều đình lúc bấy giờ, con
cái phường chèo hát xướng không được ứng thí, nên
chàng được mẹ đổi sang họ Vũ, giấu thân thế để
đăng ký dự thi.Năm ấy chàng đổ đầu kỳ thi hương và
tiếp tục ứng thí kỳ thi hội, Vũ Sinh được xướng
danh trên bảng vàng thì có người ganh ghét tố giác tội
thay tên đổi họ,gian dối lý lịch đi thi.
Thế là Vũ
Sinh bị tuốt hết bằng cấp và suýt rơi vào vòng lao lý
nếu quan chánh chủ khảo năm đó không quí mến văn tài
của chàng nên xin nhà vua giảm tội nếu không bị ghép
tội khi quân,coi thường mệnh vua phép nước là cái chắc,
chàng chỉ bị cấm từ nay không được ứng thí nữa
nếu không sẽ phạm tội chết.Uất ức, đau buồn Vũ
Sinh biết rằng con đường công danh, cơ hội muốn đem
tài năng của mình ra giúp dân giúp nước đã mất, chàng
bỏ xứ Thanh lên Thăng Long tìm đường mưu sinh chờ cơ
hội khác,trời đất run rủi thế nào để kiếm sống Vũ
Sinh hành nghề kể chuyện mua vui cho kẻ khác và không
biết từ lúc nào chàng trở thành người kể chuyện nổi
tiếng của đất kinh kỳ. Vũ Sinh có lối dẫn nhập rất
độc đáo lúc là một bài thơ, bài đồng dao, một câu
chuyện cổ tích,ngụ ngôn… để vào chuyện nên ngay từ
đầu đã tạo sự cuốn hút đối với người nghe.
Trong không
khí se lạnh của ngày cuối năm, ở góc phiên chợ cạnh
tửu quán Vạn Xuân có khoảng đất trống là nơi Vũ Sinh
thường dùng làm nơi kể chuyện,mọi người háo hức chờ
đợi chàng kể một câu chuyện mới.
Đó là câu
chuyện về truyền thuyết xây thành Cổ Loa,chuyện nỏ
thần và nhất là bi kịch tình yêu giữa Trọng Thủy,Mỵ
Châu dẫn đến chuyện mất nước Âu Lạc, Vũ Sinh kể
rất say sưa,hấp dẫn.Kết thúc chuyện chàng nhắc lại
lời của Thần Kim Qui nói với An Dương Vương :Giặc ngồi
phía sau nhà vua đó để phê phán Mỵ Châu chính là thủ
phạm chính, nàng là người có tội với đất nước đã
đưa đất nước rơi vào cảnh nô lệ gần một ngàn
năm.Vũ Sinh chưa kết thúc câu chuyện thì đột nhiên một
cơn lốc mạnh nổi lên, cát bụi bốc lên mù mịt, lều
bạt hàng quán gió vỗ nghe phành phạch, cột kèo kêu răng
rắc, trời đang quang mây tạnh bỗng tối sầm lại, ai
nấy đều hoảng hốt sợ hải vội chạy tìm nơi ẩn nấp
hoặc mau chóng thu xếp hàng họ quay trở về nhà.Một lát
sau trời trở lại bình thường như không có chuyện gì
xảy ra nhưng chợ đã vãn người đã thưa, đường phố
vắng vẻ, Vũ Sinh đứng ngơ ngác một hồi, buồn bã gói
mấy quyển sách cũ vào trong tay nải lửng thửng bước
về nhà.Hoa đào của mấy nhà dân hai bên đường có
những cây đã bắt đầu nở hàm tiếu, màu hồng phơn
phớt khoe sắc như báo hiệu một mùa xuân sắp đến trên
đất kinh kỳ.
Đêm ba mươi
năm nay thật buồn. Đã năm năm rời xứ Thanh lên Thăng
Long đầy ngựa xe phồn hoa nầy, Vũ Sinh vẫn tưởng sẽ
tìm được con đường sáng để đem tài học của kẻ sĩ
đem thi thố trước thời cuộc đầy biến động nầy.Ngoài
bắc,nạn kiêu binh tác yêu tác quái, Vua Lê Chúa Trịnh
ngày đêm tiệc tùng trác táng, sưu thuế nặng nề.Trong
nam, Chúa Nguyễn hùng cứ một phương,phân chia ranh giới.
Vũ Sinh bước ra ngoài hiên cửa nhìn về phương trời xa
, bất giác cất giọng u hoài:
- Đời ta đến thế nầy
thôi sao? - Sao lại thế nầy? Công tử có tâm sự ư?
Nghe tiếng người, Vũ
Sinh sửng sốt quay người lại, một người con gái xuất
hiện từ lúc nào.Môi hồng,da phấn, nét mặt thanh tú,mái
tóc dài mềm mại xỏa một bên vai, khoác chiếc áo choàng
trắng, một người con gái đẹp nếu không nói là tuyệt
thế giai nhân. Dưới ánh sáng chập chờn của ngọn bạch
lạp càng tăng thêm vẻ quyến rũ, ma quái của cô gái, Vũ
Sinh cảm thấy rờn rợn nhưng cố trấn tỉnh hỏi:
- Nàng là ai? Từ đâu đến?
Thiếu nữ nhìn Vũ Sinh
mỉm cười:
- Là ai ư? Công tử cần
chi biết thân thế thiếp.Thiếp là người từ lâu hâm
mộ tài kể chuyện của công tử nhưng chưa có dịp diện
kiến.Sáng nay nghe công tử kể truyền thuyết Chiếc áo
thiên nga nên thiếp đến gặp công tử nhờ giải mối
oan tình.
Vũ Sinh kinh ngạc:
- Chiếc áo thiên
nga? Giải mối oan tình? Cơn lốc sáng nay chẳng lẽ có
liên quan đến nàng?
- Phải, cơn lốc ban sáng do thiếp tạo ra để phản đối cách nhìn nhận vấn đề chưa đúng của công tử về công chúa Mỵ Châu.Truyền thuyết còn nhiều uẩn khúc mà công tử chưa biết tường tận đấy thôi.
- Phải, cơn lốc ban sáng do thiếp tạo ra để phản đối cách nhìn nhận vấn đề chưa đúng của công tử về công chúa Mỵ Châu.Truyền thuyết còn nhiều uẩn khúc mà công tử chưa biết tường tận đấy thôi.
Trong thâm tâm họ Vũ
có cảm giác hơi khó chịu vì bị chê kiến thức còn
khiếm khuyết, người chê lại là cô gái xinh đẹp,chàng
cố dằn lòng:
- Câu chuyện có nhiều uẩn
khúc,xin được lắng nghe nàng giải thích
- Công tử thật lòng muốn
nghe ư?
- Vâng! Nàng cứ nói.
Giọng người con
gái trở nên xa xăm như muốn đưa Vũ Sinh về thuở hồng
hoang của thời kỳ dựng nước Âu Lạc:
Truyền thuyết
kể rằng sau khi đánh tan quân xâm lược nhà Tần và thôn
tính được nước Văn Lang,Thục Phán lên ngôi lấy hiệu
là An Dương Vương, thành lập nước Âu Lạc.An Dương
Vương là vị vua có tầm nhìn trông rộng thấy kinh đô
cũ của nước Văn Lang không phải là nơi có thể định
đô xây dựng đế nghiệp lâu dài, ông cho thầy địa lý
đi khắp cõi Âu Lạc tìm thế đất thịnh vượng để
xây dựng kinh đô mới.Các thầy địa lý tìm kiếm hàng
tháng trời về báo lại, có một vùng đất có vị trí
đắc địa có thể khống chế một vùng rộng lớn cả
đồng bằng lẫn sơn địa. Đó chính là Cổ Loa. Khi quyết
định dời đô từ Phong Châu về Cổ Loa, đoàn thuyền
của vua chứng kiến cảnh chín con rồng quần thảo một
hòn ngọc lớn. Vua cho đấy là điểm lành nên chọn đúng
nơi mà chín con rồng quần thảo để xây chính điện.
Trong cuộc giao tranh, một con rồng khỏe nhất chiếm lĩnh
được hòn ngọc và ngậm vào mồm. Nhưng nó cũng bị
hỏng một mắt sau cuộc chiến đó. Bởi chính An Dương
Vương đã dùng bảo kiếm của mình chọc thủng mắt rồng
để quy phục bản tính hung dữ của nó. Thành Cổ Loa xây
nhiều lần vẫn không xong, An Dương Vương khấn thần
phật giúp đở, Thần Kim Quy hiện lên giúp vua tiêu diệt
yêu quái thành mới xây xong.Thần còn tặng cho vua chiếc
móng và sợi dây gân của loài giao long sống lâu năm ở
biển đông để làm vũ khí giữ thành.An Dương Vương sai
Cao Lỗ một vị tướng tài tạo thành chiếc nỏ thần
kỳ,dùng móng rùa thần làm lẫy, gân giao long làm dây
nỏ.Chiếc nỏ rất lớn và rất cứng khác xa nỏ
thường.Mỗi lần bắn có thể phát ra hàng trăm mũi tên
tiêu diệt rất nhiều quân địch và có thể bắn liên
hoàn nên hiệu quả sát thương rất cao. Để sử dụng
tốt chiếc nỏ thần kỳ cần có nhiều tướng sĩ có sức
mạnh phi thường.
Nhờ chiếc nỏ thần
kỳ mà Âu Lạc đã nhiều lần đánh bại cuộc xâm lăng
của Triệu Đà chúa đất Nam Hải.Triệu Đà thấy Âu Lạc
sản vật nhiều,phong phú nên tìm mọi cách để mở mang
lãnh thổ,bành trướng thế lực về phương nam.Nhưng Âu
Lạc có nỏ thần, quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều
nên đành rút lui tìm cơ hội khác.Triệu Đà thấy việc
dùng binh không có lợi, bèn xin giảng hòa rồi sai con là
Trọng Thủy làm sứ giả qua cầu thân nhằm tìm cách phá
chiếc nỏ thần, vũ khí lợi hại của dân Âu Lạc.
Trọng Thủy là người
con hiếu thuận nhưng chàng lại không thích chiến
tranh,nhiều lần chàng khuyên cha nên lấy tình hòa hiếu
đối với lân bang nhưng Triệu Đà không nghe.Sợ Trọng
Thủy làm hỏng đại sự của mình, Triệu Đà đã cử
một gia tướng thân cận giả làm người hầu cận của
Trọng Thủy để nắm lấy nội tình của Âu Lạc mà
chính Trọng Thủy cũng không hề hay biết.Trong những ngày
làm sứ giả đi lại kết tình hòa hiếu,Trọng Thủy gặp
được Mỵ Châu, nàng công chúa mắt phượng mày ngài,
nhan sắc tuyệt trần, con gái yêu của An Dương Vương.Trai
tài gái sắc gặp nhau,họ yêu nhau tha thiết đắm say.An
Dương Vương thấy đôi trẻ gắn bó với nhau như hình
với bóng, nghĩ việc kết thân sẽ làm tăng thêm mối
giao hảo giữa hai nước giảm đi cái họa ngoại xâm từ
nước láng giềng phương bắc nên nhà vua liền gả Mỵ
Châu cho Trọng Thủy. Để làm nguôi ngoay nỗi nhớ quê
hương của Trọng Thủy, không nơi nào trong thành Cổ Loa
mà Mỵ Châu không đưa Trọng Thủy đến xem,thưởng
ngoạn, kể cả những nơi bố trí canh phòng cẩn mật.Một
lần Trọng Thủy nhớ cuộc chiến tranh giữa hai nước
trước kia bèn hỏi:
- Nàng ơi! Bên Âu
Lạc có bí quyết gì mà chiến thắng ngoại xâm vậy?
Mỵ Châu vô tình
đáp:
Nào có bí quyết gì đâu chàng. Âu Lạc có thành cao, hào sâu vững chắc, tướng sĩ tinh thần chiến đấu dũng mãnh,tinh nhuệ, lại có chiếc nỏ thần kỳ một phát bắn ra có thể tiêu diệt hàng trăm quân địch thì giặc nào mà không thất bại hở chàng?
Rồi Mỵ Châu đưa Trọng
Thủy đến nơi cất nỏ thần, giải thích cho chàng biết
cách chế tạo, sử dụng nỏ thần.Tất cả những sự
việc đó điều được tên gia tướng đi theo hầu cận
ghi chép đầy đủ,tìm cách đánh trao lẩy nỏ bí mật
chuyển về Nam Hải . Nhằm phá thế phòng ngự của Âu
Lạc, Triệu Đà đã gởi sang tặng An Dương Vương một
đoàn nữ nhạc nhan sắc tuyệt trần,ca hay múa giỏi,
những loại rượu ngon, đặc sản của miền Nam Hải để
vua quan Âu Lạc chìm đắm trong men say tửu sắc. Quả
nhiên An Dương Vương đã rơi vào bẩy của Triệu Đà.Thấy
thời cơ đã đến,Triệu Đà viết thư triệu hồi Trọng
Thủy về nước để chống giặc vì quân Tần phương bắc
lại quấy nhiễu biên cương.Thấy chồng nhận thư có vẻ
buồn bã bồn chồn, Mỵ Châu liền hỏi:
- Hình như chàng có
điều gì không vui?
Trọng Thủy nhìn nàng
đáp:
- Phụ vương triệu
hồi ta về nước cầm quân chống giặc Tần xâm lược.
Lần nầy về nước, lại đi phương bắc xa xôi chinh
chiến, lành ít dữ nhiều, không biết ngày nào có thể
gặp lại nàng, lòng ta cảm thấy bất an.
- Chàng đi lần nầy xa
xôi nghìn dặm, vì nước lòng em không cản, nhưng biết
đến bao giờ chúng ta được gặp lại nhau?
- Nàng ơi, nếu chẳng
may giặc giả xảy ra, nàng không còn ở chốn nầy, ta
biết tìm nàng phương nào?
- Thiếp có chiếc áo
lông ngỗng trắng, hễ thiếp chạy về phương nào,thiếp
sẽ rải lông ngỗng trên đường đi, chàng theo đó mà
tìm thiếp.
Nói xong Mỵ Châu khóc
nức nở.
Trọng Thủy về
nước cũng là lúc Triệu Đà phát động chiến tranh với
Âu Lạc.Nỏ thần mất hiệu nghiệm, tinh thần chiến đấu
của quân sĩ bạc nhược, những nơi phòng thủ xung yếu
bị chọc thủng nhanh chóng, quân Nam Hải ùa vào thành.
Bấy giờ An Dương Vương mới vội lên ngựa, để Mỵ
Châu phía sau ra khỏi cửa thành chạy về phương nam, trên
đường ngựa chạy Mỵ Châu đã rải lông ngỗng theo để
Trọng Thủy theo dấu mà tìm nàng.
Ngựa chạy liền mấy
ngày đêm, đường bôn tẩu càng xa đường núi càng gập
ghềnh hiểm trở, đến chân núi Mộ Dạ thì đường hết,
trước mặt là biển cả mênh mông.An Dương Vương dừng
ngựa ngửa mặt lên trời kêu:
- Trời đã tuyệt đường
ta rồi.
Nhà vua vừa than xong thì
một cơn lốc mạnh bốc bụi cát lên cao, biển dậy sóng
mù mịt.Thần Kim Qui hiện lên trong cơn sóng dữ, giọng
rền vang:
- Người tiếp tay với
giặc ở sau lưng nhà vua đó.
An Dương Vương chợt
hiểu, Mỵ Châu khóc nói với cha:
- Con trẻ lòng sáng như
nhật nguyệt đâu ngờ âm mưu của kẻ thù gây họa mất
nước.Con xin lấy cái chết để đền tội với non sông.
Nàng nhìn về đường
cũ than:
Lông ngỗng
bay theo đường bôn tẩu
Vó ngựa
vùi chôn khối u tình
Sóng biển
chưa tan hồn huyết lệ
Trách
chàng dứt nghĩa dấy đao binh.
Rồi rút gươm của vua
cha tự vẫn chết,máu nàng loang cả một vùng biển.An
Dương Vương ôm xác con khóc, nhà vua hiểu chính mình mới
là người tạo nên thảm họa diệt vong của đất nước,
con trẻ nào có tội tình gì. Đau buồn, hối hận nhà vua
định đưa gươm lên kết liễu đời mình, thì Thần Kim
Qui cất tiếng:
Xin người dừng tay, người còn trách nhiệm với đất nước nầy.Ngày sau ta sẽ giúp người phục quốc, xây dựng lại cơ đồ đã mất. Long Quân đang chờ đợi người,hãy đi ngay kẻo không kịp.
An Dương Vương ngậm
ngùi nhìn về cố quốc giây lâu rồi bước xuống biển.
Lạ thay nhà vua bước tới đâu thì nước biển dạt ra
tới đó,phút chốc nhà vua đã mất hút vào lòng biển
khơi.
Trọng Thủy khi biết được
sự tình thì đã muộn.Từ Phiên Ngung chàng vội vã phi
ngựa ngày đêm về Cổ Loa, đến nơi thì thành quách đã
tan tành,khói lửa ngút trời.Theo lời ước hẹn,Trọng
Thủy theo đường lông ngỗng xuôi về phương nam thì
không còn kịp nữa.Chàng ôm xác Mỵ Châu khóc than,lòng
đầy hối tiếc.Tham vọng bá quyền của vua cha đã đẩy
hai dân tộc vào cuộc binh đao tàn khốc.Trọng Thủy đưa
xác Mỵ Châu lên bè chèo ra biển khơi hường về hoang
đảo,mong tìm một cuộc sống an nhiên giữa cỏ cây hoang
dã chỉ có chàng với những hoài niệm về một mối tình
trong sáng,trái ngang bị tham vọng của người đời vùi
dập, chia rẻ.
Vũ Sinh buột
miệng nói:
- Thế còn truyền
thuyết giếng ngọc?
- Do người đời sau
thêm vào để tăng thêm bi kịch cho cuộc tình đầy oan
trái của Trọng Thủy-Mỵ Châu mà thôi.
Vũ Sinh vô cùng
ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên chàng được nghe
kể câu chuyện ly kỳ có nhiều tình tiết mới mẻ đến
thế, chàng thắc mắc hỏi giai nhân:
- Nhưng trong chính sử từ
xưa đến nay vẫn chép như thế ?
Giai nhân lắc đầu cười
buồn:
- Công tử đừng
nghĩ rằng chính sử bao giờ chép cũng đều đúng cả,
cũng như dã sử, ngoại truyện là do người đời thêu
dệt nên, tất cả đều có nguyên nhân của nó.
Vũ Sinh nhìn giai nhân,
lòng đầy nghi hoặc:
Vì sao nàng lại biết
biết rõ tường tận đến thế? Chuyện nầy xảy ra
trên ngàn năm rồi còn gì? Chẳng lẽ nàng là…
Vũ Sinh hoảng hốt,
ngập ngừng không nói hết câu, người phụ nữ xinh đẹp
khoác chiếc áo choàng trắng đứng trước mặt mình lại
là công chúa Mỵ Châu hơn ngàn năm về trước? Như đoán
được tâm trạng của Trần Sinh, giai nhân nhìn chiếc áo
mình đang mặc, khẻ gật đầu nói:
Công tử đoán không sai, thiếp chính là Mỵ Châu trong câu chuyện Chiếc áo thiên nga mà buổi sáng hôm nay công tử kể cho mọi người nghe .Nỗi oan tình suốt cả ngàn năm của thiếp đã động lòng trời cao, nên thiếp và công tử mới có cơ duyên gặp mặt.
Vũ Sinh ngạc
nhiên,chưa hiểu:
- Ý nàng muốn nói
là…
- Nhờ công tử
giải oan tình cho thiếp.
- Bằng cách nào?
- Như cách công tử
từng làm.
- Nghĩa là...
Vũ Sinh chợt hiểu, chàng
ngập ngừng:
- Ta e khó lay chuyển
tình thế.
- Vì sao?
Vì truyền thuyết đó đã ăn sâu vào tận xương cốt của dân chúng rồi, giờ bắt họ chấp nhận một thực tế khác thì chẳng khác nào bảo họ phải đạp đổ thành trì tư tưởng từ lâu hay sao?
Giai nhân có vẻ trầm
ngâm:
- Đó có lẽ là
một điều rất khó đối với công tử.Thiếp chỉ khuyên
công tử một điều khi đã biết tường tận đúng sai
một vấn đề thì phải biết thay đổi hành động việc
làm, đừng đem những lời nói sáo rổng mê hoặc lòng
người như trước, về sau hối hận không kịp.
- Thế nàng bảo
ta phải làm thế nào?
- Là kẻ sĩ đứng
trước thời cuộc nghiêng ngửa nầy công tử chưa có dự
định gì cho mình sao?
- Xin nghe nàng nói.
- Đàng Trong là
nơi đất lành chim đậu, long vân hội tụ, công tử có
thể khởi nghiệp cho mình.
Vũ Sinh như bừng tỉnh
một giấc mộng dài,chấp tay cung kính:
Cám ơn nàng đã nhắc nhở.
Giai nhân đừng dậy
mắt nhìn ra cửa:
Năm cũ đã tận, Thời khắc
chuyển giao đã tới,Thiếp đi đây.
Vũ Sinh hoảng hốt
nói:
Thế còn có dịp gặp lại
nhau không?
Giai nhân nhìn chàng
mỉm cười:
- Chúng ta gặp
nhau đêm nay đã là cơ duyên rồi.Thiên đình cảm thông
nỗi oan tình của thiếp cả ngàn năm nên cho phép thiếp
gặp chàng nhờ chàng giải tỏa những oan ức mà thiếp
phải mang.Nay khối u tình đã dứt thiếp được thiên
đình cho phép tái sinh về phương nam trong gia đình họ
Trần. Nếu thật sự có duyên số chúng ta sẽ gặp lại
nhau.
- Làm sao để nhận ra nhau? - Khi công tử thấy cô gái nào mang áo choàng lông ngỗng là thiếp.
Nói xong giai nhân bước
ra cửa đi thẳng, phút chốc đã biến mất, chỉ còn
thoảng lại mùi hương phảng phất trong phòng.Vũ Sinh bàng
hoàng như không tin vào mắt mình. Đêm trừ tịch năm đó
chàng không ngủ được.
Từ đó người
ta không còn thấy chàng thư sinh họ Vũ ra chợ kể chuyện
nữa.Có người nói chàng đã vào núi tu tiên rồi nhưng
thật ra Vũ Sinh đã bí mật vượt đèo Ngang vào tụ nghĩa
dưới trướng của Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên.Chàng
lấy lại họ Đào giúp Chúa Nguyễn xây thành đắp lũy,
chặn đứng nhiều đợt nam tiến của bắc quân đàng
ngoài lập nhiều chiến công hiển hách, được quan khám
lí họ Trần gã con gái cho.Còn việc chàng có gặp lại
giai nhân trong đêm trừ tịch hay không thì không thấy dị
sử chép
Tháng
6/2013