(bài
nói chuyện trong buổi giới thiệu bản dịch Kim Vân Kiều
Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân của GS Đàm Quang Hưng –
St. Paul, Minnesota May 18, 2013)
Mấy
tháng trưóc khi giới thiệu thơ Cung Trầm Tưởng cùng quý
vị, tôi đã nói rằng: “Chúng ta may mắn nói tiếng Việt
Nam, bởi vì tiếng Việt đơn âm và giầu thanh điệu.
Những nguyên âm với 5 dấu giọng; Sắc Huyền Hỏi Ngã
Nặng, một âm tiếng chẳng những thay đổi ý nghĩa mà
còn chuyển nhạc điệu. Tiếng Việt lại còn giầu trong
cách diễn tả, cùng một ý mà có nhiều cách diễn tả
khác nhau, bằng nhiều tĩnh tự khác nhau, mang theo những
âm điệu khác nhau, gợi lên những hình ảnh khác nhau và
cũng vì thế mang nhiều cường độ khác nhau. Những chữ
kép còn hoán chuyển vị trí, gợi lên những ý tình,
những cung bậc khác nhau, như thiết tha và tha thiết, say
đắm và đắm say, ngơ ngẩn và ngẩn ngơ, quên lãng và
lãng quên, ai dám nói rằng cảm thông đồng nghĩa với
thông cảm. Đổi dấu giọng lại cũng đổi hẳn nghĩa,
ví dụ: ngơ ngẩn và ngớ ngẩn, Thẩn thơ và thẫn thờ
…
Vì
thế tiếng Việt là một ngôn ngữ của thơ, vì thế
người nói tiếng Việt nào cũng yêu thơ, đọc thơ, làm
thơ. Những thi sĩ chẳng những có nhiều vần điệu, có
nhiều tĩnh tự, nhiều cách diễn tả khác nhau để xử
dụng mà lại còn nhiều vật liệu để tạo ra nhiều
cách diễn tả giầu hình ảnh, giầu nhạc điệu khác
nhau, du dương hơn, xoáy động hơn.
Thật
vậy, tiếng Việt là ngôn ngữ của thơ và thơ cũng làm
phong phú, huy hoàng thêm tiếng Việt. Những hình ảnh,
những nhạc điệu, những cách biểu lộ tình ý, đã đi
từ thơ vào tiếng nói hàng ngày. Có những hình ảnh,
những biểu lộ một thi sĩ sang tạo ra, ngày hôm sau được
người Việt dùng ngay trong câu nói.
Không
phải vô tình mà 80 năm trước Phạm Quỳnh đã nói:
“Truyện Kiều còn, thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì
nước ta còn”. Muốn hiểu rõ ý nghĩa của câu nói này,
hãy xem lại những ảnh hưởng của chất thơ, của chữ
dùng, của hình ảnh, của ý tưởng của truyện Kiều vào
tiếngh Việt. Ảnh hưởng đến từ nhiều năm làm cho ta
quên mất nguồn xuất phát của ảnh hưởng đó, cho nên
ngay cả những người chưa hề đọc truyện Kiều cũng
dung mà không hề biết. Những ảnh hưởng đó có khi là
từ sự sáng tạo của Nguyễn Du, cũng có khi Nguyễn Du
mang từ tục ngữ, ca dao Việt Nam vào, cũng có khi là do
Nguyễn Du mượn từ thơ văn cổ Trung Hoa, nhưng nếu không
có cái tài làm thăng hoa những hình ảnh, những ý tưởng
đó thì chẳng ai biết đến.
- Tôi thích Truyện Kiều vì ảnh hưởng của lời thơ Truyện Kiều vào tiếng Việt
Có
khi chúng ta chỉ mượn một vài chữ từ truyện Kiều để
nói, như: “ mặt dạn mày dày”, hay “phận bèo mây”,
“lầu xanh”, “dở tỉnh dở say”, “quyến gió rủ
mây”, “xa chạy cao bay”, “tơ lòng”, “đau đứt
ruột”, “nửa chừng xuân”, “đèo bòng”, “xa chạy
cao bay”, “kiến bò miệng chén”, “mèo mả gà đồng”,
“thân gái dặm trường”…
Có
khi dùng một câu, như:
“Tình
trong như đã, mặt ngoài còn e”
Hay:
“cho hay muôn sự tại trời”
hay:
“đàn bà dễ có mấy tay”
hay
“Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”
hay
“Trơ như đá, vững như đồng”
hay
“Chưa vui xum họp, đã sầu chia phôi”
hay
“ Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan”
Có
khi ta dùng hai câu:
“ Ma
đưa lối, quỷ dẫn đường
Lại
tìm những chốn đoạn trường mà đi
hay:
“trăm
năm tính cuộc vuông tròn
phải
dò cho đến ngọn nguồn lạch sông
hay,
“Dẫu
rằng sông cạn đá mòn
Con
tằm đến thác cũng còn vương tơ”
Hay:
“có
trời mà cũng tại ta
Tu
là cỗi phúc, tình là dây oan
Những
hình ảnh, những biểu tượng, những ý tình đi vào tiếng
nói hàng ngày, trở nên tự nhiên.
Khi
ta nói “lầu xanh”, “Tú Bà” ai cũng biết đó là nơi
nào, đó là người làm công việc gì, nhưng không nhớ
rằng trước khi truyện Kiều trở nên phổ thông, thì
người ta không nói thế.
Khi
nghe nói về một chàng trai là: Sở Khanh, thì ai cũng hiểu
tâm tính, phong cách của anh ta ra sao.
Khi
nói về kẻ khác là “lũ Khuyển Ưng” thì dù chưa đọc
truyện Kiều, người ta cũng biết ngay đó là loại người
gì
Muốn
nói ai đó sợ vợ, người ta gọi anh ta là Thúc Sinh
- Tôi thích truyện Kiều vì những lời thơ đầy hình ảnh đẹp, đầy ý tình thiết tha, đầy nhạc điệu réo rắt, thay đổi không ngừng.
Hãy
đọc lại vài câu
Tả
cảnh mùa xuân thì:
“Cỏ
non xanh tận chân trời
Cành
lê trắng điểm một vài bông hoa”
Hai
câu thơ nhẹ nhàng, giản dị, đọc thoáng thì chưa thấy
hay. Nhưng đọc lại lần nữa, nếu cần thì nhắm mắt
lại, bạn sẽ thấy hình ảnh mùa xuân an bình, trong sáng,
đẹp như một bức tranh đẹp. Nói về ý, tình, hình ảnh,
nhạc điệu, và cách dùng chữ của hai câu này riêng
thôi, cũng phải cần hàng giờ. Ví dụ nếu viết là
“cành lê điểm trắng…” thì tầm thường, mà
viết là “cành lê trắng điểm…” là kỳ tuyệt….
tả
cảnh mùa thu thì:
“Rừng
phong thu đã nhuộm mầu quan san”
hay
như câu:
“Nao
nao giòng nước uốn quanh
Nhịp
cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè
sè nấm đất bên đường
Dầu
dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Hai
câu trên vẽ nên cảnh nên thơ, nhưng tĩnh lạnh, hai chữ
“nao nao” như khe khẽ báo trước một nỗi niềm gì đó
sẽ đến. Hai câu sau tiếp lời, vẽ ra cảnh cô đơn,
hoang phế, tàn tạ của một nấm mồ vô chủ.
Đọc
những câu tả Kim Trọng, với vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn
của một thư sinh khi gặp Thúy Kiều lần đầu tiên, ta
mới hiểu vì sao Thúy Kiều yêu chàng ngay:
“Trông
chừng thấy một văn nhân
Lỏng
buông tay khấu bước lần dặm băng
Đề
huề lung túi gió trăng
Sau
chân theo một vài thằng con con
Tuyết
in sắc ngựa câu dòn
Cỏ
pha mầu áo nhuộm non da trời”
Khi
tả Thúy Kiều, thì mỗi lúc mỗi nơi cũng đều là hình
ảnh đẹp của lúc đó.
Khi
còn thơ ngây:
“Làn
thu thủy, nét xuân sơn
Hoa
ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
một
hai nghiêng nước nghiêng thành
sắc
đành đòi một, tài đành họa hai”
Khi
tả Thuý Vân thì Nguyễn Du tả một vẻ đẹp đoan trang,
hiền dịu mà “mây thua nước tóc, tuyết nhường màu
da”, nhưng với Thúy Kiều thi Nguyễn Du tả vẻ đẹp mặn
mà, sắc sảo mây, tuyết không chỉ “nhường” cho vẻ
đẹp mà sắc hoa, dáng liễu phải ghen tức.
Đến
khi lâm nỗi đoạn trường, cách Nguyễn Du tả vẻ đẹp
của thân hình Thúy Kiều, làm tất cả các khách mày râu
sôi máu, nóng người:
“Rõ
ràng trong ngọc trắng ngà
dầy
dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên”
Khi
gặp Thúc Sinh thì:
“Hải
đường mơn mởn cành tơ
Ngày
xuân càng gió, càng mưa càng nồng”
Nhưng
vì ở với Thúc Sinh mà bị mẹ Hoạn Thư bắt cóc về,
thì bà vợ quan Thượng Thư bộ Lại mắng như sau:
“Quân
này chẳng phải thiện nhân
chẳng
phường trốn chúa, thì quân lộn chồng
Ra
tuồng mèo mả gà đồng
Ra
tuồng lúng túng, chẳng xong bề nào
Hoạn
Thư tuy ghen ngầm, hành xử sâu độc, nhưng trong lòng vẫn
coi Thúy Kiều là:
“rằng:
tài nên trọng mà tình nên thương
Ví
chăng có số giàu sang
Giá
này dẫu đúc nhà vàng cũng nên
Bể
trần chìm nổi thuyền quyên
Hữu
tài thương nỗi vô duyên lạ đời”
Và:
“Khen
rằng: bút pháp đã tinh
So
vào với thiếp Lan Đình nào thua
Tiếc
thay lưu lạc giang hồ
Nghìn
vàng thật cũng nên mua lấy tài
Thật
sự Hoạn Thư không ghen với Thúy Kiều mà nàng tức
chồng. Hoạn Thư đã mấy lần dọ ý, mớm lời để Thúc
Sinh thú thực. Nàng đã định bụng cho Thúy Kiều làm vợ
bé của Thúc Sinh. Nhưng Thúc Sinh vẫn cứ dấu biệt, cho
nên Hoạn Thư mới làm thế để hành hạ tâm hồn Thúc
Sinh.
Nguyễn
Du tài thay, khi Thúy Kiều thành vợ Từ Hải, hùng cứ một
giang sơn rộng lớn, chia đôi đất Trung Hoa cùng triều
đình Bắc Kinh, thì Nguyễn Du không tả nàng một cách
trực tiếp như trước. Bởi vì nếu dùng ngôn ngữ trực
tiếp để tả một người đàn bà quyền uy thì là làm
kém cả vẻ đẹp tinh thần lẫn thể chất của nàng.
Nguyễn Du tả một cách gián tiếp bằng những hình ảnh
của cách hành xử ân oán phân minh, hợp tình hợp lý mọi
bề, uy nghiêm mà nhẹ nhàng.
Còn
Từ Hải, Từ Hải dưới ngòi bút Nguyễn Du không phải
là một chàng cướp biển, mà là một anh hùng, với vẻ
đẹp tinh thần oai dung, hiên ngang, và vẻ đẹp tinh thần
của một quân vương tài ba nhưng thuần hậu dịu dàng,
lại si tình và chung thủy, vừa là một tướng quân, vừa
là một nghệ sĩ, lại si tình và chung thủy (và cuối
cùng chết vì sự si tình và chung thủy của mình)
“Râu
hùm hàm én, mày ngài
Vai
năm tấc rộng, thân mười thước cao
Đường
đường một đấng anh hào
Côn
quyền hơn sức, lược thao gồm tài
Đội
trời đạp đất ở đời
Họ
Từ tên Hải vốn người Việt Đông
Giang
hồ quen thú vẫy vùng
Gươm
đàn nửa gánh, non song một chèo
Cũng
nên nói qua về Thúc Sinh, người bị mang tiếng là sợ
vợ. Thật ra Thúc Sinh cũng là một tay tài hoa và si tình:
“Khách
du bỗng có một người
Kỳ
Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương
Chàng
làm thơ, Thúy Kiều nhận biết thơ hay:
Sinh
càng tỏ nét càng khen
Ngụ
tình tay thảo một thiên luật Đường
Nàng
rằng: vâng biết lòng chàng
lời
lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu
Khi
ăn chơi, thì Thúc Sinh:
Thúc
Sinh quen nết bốc rời
Trăm
nghìn đổ một trận cười như không
Lòng
Thúc Sinh khi biết Hoạn Thư đã bắt cóc, làm nhục Thúy
Kiều và lừa mình:
Sinh
thì gan héo, ruột đầy
Nỗi
lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng
Chê
Thúc Sinh sợ vợ, thì cũng nên hiểu rằng, lẽ thứ nhất
Hoạn Thư cao kế quá, nếu Hoạn Thư nổi giận, la mắng
theo kiểu ghen thường tình, thì Thúc Sinh dư sức chống
lại. Đằng này mẹ của Hoạn Thư cho côn đồ đến bắt
cóc nàng về, đốt nhà, ném xác giả vào cho Thúc Sinh
tưởng Thúy Kiều đã chết cháy, Rồi đánh phủ đầu
bắt làm gia nhân nhà Hoạn Thư. Khi Thúc Sinh về, Hoạn
Thư mở tiệc mừng, bắt Thúy Kiều (khi này đã bị đổi
tên là Hoa Nô) ra đánh đàn, hầu rượu, thì Thúc Sinh còn
làm gì được. Vả lại Hoạn Thư là con gái quan Thượng
Thư bộ Lại. Người đứng đầu ngành hành chánh, tư
pháp của Triều Đình, quyền uy ngất trời, thì ông chồng
nào mà khi mắc kế, chẳng cắn răng chịu thua như Thúc
Sinh.
Ta
cũng phải nhớ rằng thơ chữ Hán của Nguyễn Du không
kém gì thơ Đường, nên khi Nguyễn Du Việt hóa thơ Đường
đọc lên tự nhiên như đó là thơ Việt. Hãy xem bài Đề
Tích Sở Kiến Xứ của Thôi Hộ:
Tích
niên kim nhật thử môn trung
Nhân
diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân
diện bất tri hà xứ khứ
Đào
hoa y cựu tiếu đông phong
[năm
ngoái, hôm nay dưới cổng này
mặt
người hồng lên cùng hoa đào
không
biết má hồng nay nơi đâu
hoa
đào vẫn nở tươi trong gió xuân]
mà
Nguyễn Du đã Việt hóa để tả lại tấm lòng chàng Kim
Trọng, năm sau, sau khi từ quê nhà, thọ tang chú trở lại,
mà Kiều đã vắng bóng là:
Trước
sau nào thấy bóng người
Hoa
đào năm ngoái còn cười gió đông
(gió
đông, đông phong là gió mùa xuân, thổi từ phương đông
đến)
- Tôi thích truyện Kiều vì ngoài cái vẻ đẹp của thơ trong suốt hơn ba nghìn câu lục bát. Nhưng còn là vì những ý tình mà người ta thấy hợp với những hoàn cảnh, tâm tình không bắt nguồn từ câu chuyện chính. Trong rất nhiều hoàn cảnh trên đời, người ta cũng có thể tìm thấy những câu trong truyện Kiều phù hợp với tâm tình mình. Chính vì thế trong dân gian mới có việc bói Kiều. Khi muốn biết việc tương lair a sao, có ngưới khấn nguyện Thúy Kiều rồi mở quyển Kiều một cách tình cờ ra, ngón tay bấm trúng câu nào thì dựa đoán tương lai bằng câu ấy.
Trong
truyện Kiều ngoài những câu thơ mượt mà, lại có những
câu thơ rất mới. Đọc lên tưởng chừng là thơ của
một thi sĩ tài ba đời nay, như:
“Nước
trôi hoa rụng đã yên
Hay
đâu địa ngục ở miền nhân gian”
Truyện
Kiều là một tác phẩm mà ta đọc lần đầu để thưởng
thức câu chuyện kể. Đọc những lần sau, đọc lại
toàn phần, hay đọc từng câu, từng đoạn riêng biệt để
thấy cái hay của những câu thơ đó. Như đã nói, thơ
hay phải đủ 5 yếu tố: (1) Ý – ý phải sâu sắc, thơ
không ý thì trơ trẽn, (2) tình – t ình phải thiết tha,
thơ nghèo tình thì nông cạn (3) nhạc điệu – nhạc điệu
phải uyển chuyển, phải hợp với ý tình, thơ kém nhạc
điệu thì không du dương (4) hình ảnh – hình ảnh phải
linh động, đặc sắc, thơ không hình ảnh thì nghèo nàn
(5) cách tạo chữ - kém tạo chữ thì không dấy động
được ý, tình, không làm giầu được hình ảnh và nhạc
điệu. Thơ trong Truyện Kiều chẳng những đủ những
yếu tố đó ở từng trang từng câu, mà Nguyễn Du còn sử
dụng những yếu tố ấy với cài tài ba của một bậc
thầy, với cái thi tài của một thi bá, một đại thi
hào. Thơ lục bát tưởng dễ làm, nhưng thật ra rất khó.
Kẻ kém tài dễ bị xa lầy vào cái nhịp đều đặn của
2 câu sáu tám. Làm kém thì thơ thành vè. Phải biến đổi
cách ngắt câu để đổi nhạc điệu đi. Nguyễn Du sử
dụng nhiều lối. Như ngắt những câu thành 2 vế đối:
câu 6 làm 2 đoạn, ngắt câu 8 làm 2 đoạn khác. Nguyễn
Du lại còn ngắt những câu thơ làm nhiều đoạn không
đối, dài ngắn không đều, hay trọn câu một hơi liền,
không chỗ ngắt, để biển đổi nhạc điệu.
Ví
dụ:
“mai
cốt cách / tuyết tinh thần
Mỗi
người một vẻ / mười phân vẹn mười”
hay
Nền
phú hậu / bậc tài danh
Văn
chương nết đất / thông minh tính trời
hay
“bâng
khuâng / nhớ cảnh / nhớ người
nhớ
nơi kỳ ngộ vội dời chân đi
hay
“Kiếp
hồng nhan có mong manh
nửa
chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương”
hay:
“Sương
in mặt / tuyết pha thân
Sen
vàng lãng đãng / như gần / như xa
Xin
hãy để ý đến câu này. Thoáng đọc cứ tưởng Nguyễn
Du tả sắc đẹp của Đạm Tiên. Nhưng sương in mặt là
vẻ mặt mờ mờ nhìn không rõ, tuyết pha thân là toàn
thân mặc áo quần trắng toát, còn câu sen vàng lãng đãng,
như gần, như xa là chân đi mà không nhìn thấy, không
chạm đất. Đó chính là Nguyễn Du tả một con ma. Nếu
là tôi, lúc nửa đêm, ngồi một mình mà nhìn thấy bóng
ma mờ mờ ảo ảo hiện ra như thế thì chết khiếp đi
được. Nửa câu thơ còn không làm nổi, chứ đâu mà làm
được cả 10 bài thơ Đường để dâng tặng hội chủ
Đoạn Trường, như Thúy Kiều.
- Tôi thích truyện Kiều vì tính nhân bản trải dàn khắp câu chuyện
Những
tình tiết, những biến chuyển éo le, bất ngờ. Từ buổi
lễ Thanh Minh đi chơi Xuân tình cờ gặp Kim Trọng, cho đến
15 năm sau, khi Kim Trọng và gia đình làm lễ cầu an cho
nàng ở bờ sông Tiền Đường và tình cờ gặp lại
nàng. Biến chuyển nào của câu chuyện cũng đột ngột
- Tôi thích Truyện Kiều vì những nhân vật rất người.
Chàng
Kim Trọng chung tình, suốt 15 năm xa cách không ngừng nhớ
thương, không ngừng tìm kiếm.
Mã
Giám Sinh hiển hiện bản tính của tay ma cô, côn đồ,
láo xược.
Thúc
Sinh là một công tử hào hoa, ham chơi nhưng cũng rất
chung tình.
Hoạn
Thư cao kế, ghen tuông thâm trầm, nhưng cũng ngầm mến
tài, mến sắc tình địch.
Từ
Hải là chàng anh hùng áo vải, tay trắng xây dựng giang
sơn, với tình yêu son sắt dành cho Thúy Kiều.
Còn
Thúy Kiều là cô gái lãng mạn, mơ mộng nhưng suốt 15
năm nổi trôi luân lạc, lòng nhớ thương gia đình và
tình yêu Kim Trọng vẫn tha thiết không nguôi, hành xử
phân minh, khi yêu Kim Trọng, hay Thúc Sinh, hay Từ Hải cũng
là tình yêu sâu đậm nồng nàn.
- Tôi thích Truyện Kiều vì cái thi tài của Nguyễn Du
Từ
câu chuyện Thanh Tâm tài Nhân, vốn là một tác phẩm
không hay, Nguyễn Du chỉ muợc ý chính rồi phóng tác
thành một tác phẩm mà trong mấy trăm năm qua, từ vua
quan triều Nguyễn, đến những học giả, những người
yêu thơ, và mọi tầng lớp dân gian biết đến và yêu
thích. Mặc dù dung những tên đất, tên người Tầu,
nhưng ta cứ ngỡ là truyện Việt.
Sau
này, khoảng thập niên 1950, 1960 ở Saigon, có nhà văn
Hoàng Hải Thủy, là người cũng có biệt tài phóng tác,
trong số những tác phẩm ông phóng tác, như truyện Jane
Eyre của Charlotte Bronte và Wuthering Height của Emily Bronte,
mà ông biến thành Kiều Giang và Đỉnh Gió Hú, khi đọc
ta cứ tưởng như chuyện tình Việt Nam xẩy ra ở Dalat.
Dông
dài nãy giờ đã quá nhiều, thời gian thì có hạn, thế
nhưng nói về Truyện Kiều thì bao giờ mới xong? Ta có
thể nói cả ngày, cả tháng cả năm cũng vẫn cứ thấy
thêm được những cái hay, những lý do yêu thích Truyện
Kiều. Nhưng điểm cuối cùng tôi muốn nêu lên ngày hôm
nay là Truyện Kiều đẹp vì được viết bằng tiếng
Việt và tiếng Việt đẹp vì nhờ sức sang tạo tiếng
Việt của Nguyễn Du qua Truyện Kiều. Phạm Quỳnh bảo
“Truyện Kiều còn, thì tiếng ta còn…” thế nhưng đời
nay còn mấy ai đọc và học Truyện Kiều nữa. Cho nên
tiếng Việt đang mất đi vẻ trong sang, uyển chuyển, du
dương khi người ta đang Hán hoá tiếng Việt, bằng những
từ ngữ nặng nề, thô lậu như thay vì nói có, thì nói
là sở hữu, thay vì nói tôi thấy, thì nói sai văn phạm
là tôi cảm giác, thay vì nói thích, thì nói là ấn
tượng….
Vì
thế nếu chưa đọc Truyện Kiều từ đầu đến cuối,
xin hãy đọc, nếu đọc rồi, xin hãy đọc lại. Tôi tin
rằng bạn không những vui thích vì đọc một tác phẩm
hay nhưng lại còn học hỏi được nhiều điều hay cả
về văn chương lẫn cách sống đẹp trên đời.
BNT