KDV/họa sĩ Rừng |
CHUYỆN CỦA NHÃ
- Thế nào tôi cũng
tìm cách giết nhạc sĩ Ban. Nhã nói với tôi như vậy.
Lần đầu tiên, vì trong cơn say cần sa, tôi nghĩ rằng
Nhã nói chơi. Nhưng sau đó trong những khi tỉnh táo, Nhã
vẫn lập lại, nhiều lần. Nhạc sĩ Ban đến nay vẫn còn
sống. Nhã nuôi ý định giết nhạc sĩ Ban để rửa nhục.
Câu chuyện đã trôi qua hơn mười lăm năm. Nhã sống ở
Đà lạt thỉnh thoảng về Sài Gòn gặp tôi... Tôi xa quê
hương đã lâu; không liên lạc với Nhã, không biết bây
giờ Nhã còn nuôi ý định giết nhạc sĩ Ban nữa không.
Tôi lên Đà lạt
lần đầu tiên năm 1969
- Tôi biết anh từ
dạo đó. Nhã nói. Có vài lần định đến thăm anh nhưng
chưa đến được.
Rồi một khoảng
thời gian hơn mười năm trôi qua tôi mới gặp Nhã lại.
Trong khoảng thời gian đó cả hai đều bị du vào một
cơn mộng dữ của lịch sử đất nước. Chính do lần
gặp gỡ này; có một thời gian sống với Nhã, mới xảy
ra mối thù của Nhã đối với nhạc sĩ Ban. Nhã đẹp
trai, phong nhã. Với mái tóc bồng bềnh và điệu nhảy lã
lướt làm cho nhiều cô gái chết mê chết mệt.
- Anh biết lần đầu
tiên tôi biết đàn bà lúc bao nhiêu tuổi không? Mười
sáu. Cũng là do những party đêm. Lần đó, sau khi tan cuộc,
tôi say. Một thiếu phụ khoảng ba mươi tuổi cho tôi quá
giang về nhà. Nhìn kỹ, tôi biết đó là vợ của một
quan chức trong tỉnh. Tôi bằng lòng. Bà ta dìu tôi ra xe
hơi, để nằm băng sau. Xe dừng lại. Bà ta lại dìu tôi
vào. Tôi ngồi lên một sô fa, thấy không phải nhà mình.
Tôi định lên tiếng hỏi thì bà ta đã nói:
- Đây là nhà tôi.
Em say quá, hãy nằm nghỉ một lát. Tôi làm nước chanh
cho em uống, khỏe rồi hãy về.
- Vậy đó, Nhã kể.
Rồi tôi bị nhốt một tháng trong gian phòng sang trọng
đó, chỉ thấy ánh mặt trời qua cửa kính và da
thịt mịn màng của bà ta. Tôi được bà ta nuôi như vỗ
heo ú. Suốt ngày đêm hầu như chúng tôi trần truồng.
Bất cứ lúc nào tôi muốn hay bà ta muốn là chúng tôi
xáp lại. Tôi không còn biết thời gian, không gian nữa.
Cho đến một hôm, tôi cảm thấy thân thể rả rời, đầu
óc choáng váng, mắt đổ ghèn và nhìn thấy một vật
thành hai. Nhân lúc bà ta đi chợ, tôi đập cửa kính và
trốn. Về nhà tôi nằm liệt cả tháng mới dậy nổi.
Người yêu tôi đến thăm, thấy thân thể tôi tiều tụy,
nàng khóc. Lòng tôi dửng dưng. Trước tôi yêu nàng
biết chừng nào. Sau vụ đó tôi thất vọng về đàn bà.
Tôi chán tất cả. Cả nàng.
Tôi xin đăng lính
Biệt kích Mỹ, nhỏ tuổi không được nhận. Tôi làm
khai sanh giả đi lính Biệt động quân. Cuộc đời từ đó
kể như tàn. Chán. Xin qua nhảy dù. 30/4. Tám năm cải tạo.
Nhã trốn trại hai
lần đều bị bắt lại nhưng nhờ chút tài vặt nên được
tha. Nhã có cái nhìn rất lạ. Trong ánh mắt Nhã tất cả
mọi người đều giống nhau. Không ai hơn, kém. Cái nhìn
trong veo như của trẻ thơ. Nhã rất khéo tay. Nếu được
đào tạo, Nhã sẽ trở thành một nhà điêu khắc. Trong
tay Nhã, với một cái đinh, trong phút chốc viên phấn đã
trở thành một hình người, một con thú. Cán bộ trại
hay nhờ Nhã làm búp bê bằng gỗ cho con chơi. Hết người
này đến người khác nhờ. Nhã làm liên miên, say mê.
Sau, có dụng cụ tốt, Nhã đục hình người bằng đá,
chỉ cần nhìn tấm hình, Nhã đục giống hệt. Nhã làm
đàn ghi ta cổ điển, âm thanh rất chính xác. Được cán
bộ trại thương.
Nhã chỉ là sĩ quan
thường, nhưng đi cải tạo lâu năm vì cái tính bất nhất
của mình. Nhã không để ý gì cả. Phần đông tù cải
tạo khi khai lý lịch có để sẵn một bản gốc. Những
lần khai sau cứ lấy ra mà chép lại. Nhã mỗi lần khai
mỗi khác nên bị coi là khai báo không thành thật. Nhưng
lâu quá cũng phải cho về.
Tôi gặp lại Nhã
khi Nhã về khoảng hai năm, đã lập gia đình.
- Tôi đâu có biết
hồi trước cô ta thầm yêu tôi. Tình cờ gặp nhau, cô ta
đến nhà chơi vài lần, vậy đó.
Nhưng cho đến khi
tôi rời khỏi Việt Nam, Nhã không còn ở với vợ
con nữa. Nhã lên cất một cái chòi cạnh nghĩa trang làm
nghề đục bia mộ. Nhã đục một bia mộ, ở chỗ tên
người chết là giòng chữ “nơi đây yên nghỉ một mối
tình”. Nhã đem dựng trong nghĩa trang.
- Em còn thương yêu
anh ấy, vợ Nhã nói. Nhưng đã mấy năm rồi em bảo ảnh
về lại làm ăn với em, sẵn có vốn liếng, nhà cửa,
ảnh không chịu. Còn em, mấy đứa con, làm sao ở với
ảnh trong cái chòi gần nghĩa địa được. Vả lại...
cái bà gì hồi trước và cả cô người yêu cũ của ảnh
cũng đi tìm ảnh. Thỉnh thoảng họ còn gặp nhau. Em phải
nuôi con em chứ anh.
THANH
Năm 1980. Tôi về.
Không nhà cửa. Lông bông tá túc hết nhà này đến nhà
khác. Tôi gặp Thanh, bạn cũ. Thanh làm ăn được, có vốn
liếng. Thanh buôn bán giỏi nhưng mê làm tượng. Con nhà
giàu, lúc đi học có bao nhiêu tiền Thanh bỏ ra mua sắt
vụn về làm tượng. Hàn gió đá đến nỗi hư cả mắt.
Thanh sưu tầm sắt ở những nơi xảy ra cuộc chiến. Đem
về hàn xì, cưa, đục lên cắt những thanh sắt cong queo
của rào kẽm gai, bánh xích xe tăng, nòng súng vỡ...Có
lần Thanh điều đình mua một chiếc xe tăng bị mìn cháy
và một chiếc cầu bị giật sập nhưng không thành.
- Thật tuyệt vời,
Thanh say sưa nói. Cái matière sắt chảy và những hình thù
kỳ dị tự nhiên không thể nào tạo ra nổi. Chỉ cần
cắt, ráp lại là thành tượng đài. Những thanh sắt cầu
Trường Tiền sập... đẹp tuyệt. Và còn biết bao nhiêu
cầu sập nữa, tôi sẽ mua về hết.
Thanh có óc sáng
tạo. Anh đưa nhiều sáng kiến cải tiến đời sống con
người trong thế kỷ 21. Để giải quyết nạn nhân mãn,
ngoài việc cho con người chui xuống lòng đất người ta
đã làm, Thanh nghĩ ra những căn nhà trên không, có thể
di chuyển được, ráp nối lại với nhau thì thành thành
phố treo. Không thích thì tách ra, đi du lịch lơ lửng
trên biển, trên rừng. Anh sẽ tìm ra một loại khí siêu
nhẹ để đẩy những ngôi nhà đó. Ruộng rẫy cũng vậy,
để tránh những thiên tai, anh nghĩ ra kỹ thuật ruộng
treo, rẫy treo. Xây bệ chứa đất trồng cây lương thực.
Anh còn đề nghị với tôi làm một công trình nghệ thuật
vĩ đại để chào đón thế kỷ 21. Chúng tôi sẽ xây một
ngôi tháp cao hai ngàn thước gọi là “Tháp Hòa Bình”.
Thân tháp là một bức khắc nổi, mô tả những sinh hoạt
của tất cả các giống người trên hành tinh bằng đá
quí (tiêu chuẩn thấp nhất là agát, có độ cứng chỉ
thua kim cương). Trên nóc tháp là một quả địa cầu chạm
hình bản đồ năm châu, nạm kim cương. Trong ruột có một
cái chuông, khi ngân lên cả vùng Đông Nam Á nghe được.
Những châu khác sẽ nghe qua hệ thống truyền sóng siêu
xa lộ thông tin.
Chúng tôi định đặt
tháp ở Vũng Tàu. Phác thảo tôi phụ trách, mô hình cao
hai mươi thước tôi, và Thanh hợp tác làm. Một anh thi sĩ
sẽ làm một bài thơ như một thông điệp hòa bình gởi
đến tất cả nhân loại. Đúng giây thứ nhất đầu
thiên niên kỷ ba ngàn, tiếng chuông hòa bình sẽ ngân
lên, bài thơ được phát đi bằng tiếng Việt Nam đồng
thời được dịch ra ngôn ngữ quốc tế và 180 thứ tiếng
khác phát trên siêu xa lộ thông tin đến toàn thể nhân
loại, kêu gọi một nền hoà bình vĩnh cữu, cho con người.
Để làm công trình
này cần chi phí rất lớn. Thanh sẽ viết thư cho Tổng
thư ký Liên hiệp quốc và các nhà lãnh đạo thế giới,
nêu rõ mục đích, kêu gọi đóng góp.
Tôi được phân
công đi tìm đá quí để làm mô hình thử nghiệm. Tôi
đọc một số sách về địa chất học, các loại đá
quí. Tôi biết có được loại đá đen gọi là tectit. Đây
là một loại thiên thạch rơi vào địa cầu khoảng vài
triệu năm trước. Ở Việt Nam thiên thạch vụn ra rơi
xuống như mưa. Viên lớn nhất tôi tìm thấy lớn hơn khu
chén, dẹp như hình dáng chiếc bánh dầy, màu đen. Còn
nhiều hình thể khác giống như củ khoai lang nhưng nhỏ
hơn. Đá nằm rãi rác trên cao nguyên Trung phần từ Lâm
Đồng vô đến cao nguyên miền Đông nam Việt Nam. Bên
ngoài thoạt trông đá nằm trong đất giống như viên sỏi
đen, mình lấm chấm tổ ong. Thực ra đá đen tuyền nếu
được cọ rửa kỹ. Đập vỡ bên trong thịt đá trong
vắt. Trong nghề thợ đá gọi là hạt huyền. Mài dũa
thành hình, đánh bóng đen nhánh làm nữ trang rất đẹp.
Do việc đi tìm đá
mà tôi gặp Nhã lại ở Đà Lạt. Nhã hết sức mừng rỡ,
mặc dù chúng tôi gặp nhau lần này mới là lần thứ hai
sau thời gian dài xa cách. Nhã đang làm đàn kiếm sống,
nhưng nghe tôi trình bày dự án tháp Hòa Bình, Nhã nhảy
cỡn lên giăng hai tay lên trời:
- Hoan hô! Đã quá!
Hoan hô! Dự án tháp Hòa Bình!
Thế là Nhã bỏ
luôn việc đóng đàn dù đã lấy tiền cọc trước. Chúng
tôi lang thang cả tháng trời. Cứ sáng đi chiều tối về.
Những ngày đầu chân tay rời rã. Lúc đi nhẹ nhưng lúc
về đeo túi đá nặng vài chục ký, lên những dốc cao
thở không ra hơi. Có lần trèo dốc Mẹ ơi, Nhã bị hổng
chân suýt rơi xuống vực mất mạng. Chúng tôi đi sâu vào
rừng, mò dưới những suối sâu theo sự hiểu biết địa
chất của tôi có đá quí dưới đáy. Chúng tôi như hai
nhà địa chất chuyên nghiệp tay cầm búa, gặp hòn đá
nào nghi ngờ có đá quí bên trong là đập, mỏi cả tay.
Thời gian này tôi
học được bài học triết lý lý thú: cái quí là cái ẩn
tàng. Ngọc không bao giờ phơi lộ mình ra ngoài, trừ
trường hợp bị vỡ ra. Đá quí luôn luôn nằm bên trong
một lớp vỏ sần sùi, xấu xí như “cục đá”, “hòn
cuội”. Có khi rêu phong phủ kín, mốc meo không ai buồn
nhặt. Nhưng với mắt chuyên môn thì đó chỉ là lớp vỏ
đá vôi bên ngoài, ngọc ở bên trong. Các bạn thử tưởng
tượng, do tình cờ đập một “hòn cuội đen đúa”
rong rêu bao phủ, khi hòn cuội vỡ ra để lộ một cái
ruột đỏ, trong vắt, những đường vân tím, vàng chạy
vòng tròn, còn sự sung sướng nào bằng. Nhưng đó chỉ
là tưởng tượng, chúng tôi chưa có diễm phúc đó, chỉ
được thấy trong tủ kính bày hàng. Tuy nhiên chúng tôi
nhặt được nhiều mảnh vỡ, nhiều đá tectit đến vài
trăm kí lô. Theo ý kiến Thanh, thuê thợ đá mài thành hột
nữ trang bán lấy vốn đầu tư dồn tiền làm mô hình.
Chúng tôi lựa đá đẹp cất để dành làm tranh. Có những
mặt đá được chúng tôi đặt tên “Cõi trăng chìm”,
“Hoàng hôn đáy vực” ... Thanh rất mê. Ngày nào cũng
đem ra ngắm nghía. Đây cũng là lúc xảy ra ý nghĩ Nhã
muốn giết nhạc sĩ Ban. Chúng tôi chở đá từ Đà Lạt
về.
Thoạt trông thấy
Nhã, Thanh đã thích ngay. Có lẽ do đồng thanh tương ứng.
Một người có tâm hồn nghệ sĩ, óc sáng kiến gặp một
người có đôi mắt trong veo, ngơ ngơ ngác ngác. Thanh làm
tiệc ăn mừng thành công bước đầu. Khi đã ngà ngà
say, Nhã móc gói cần sa mời mọi người hút. Ai cũng sẵn
sàng vấn. Chúng tôi chìm trong những trận cười không
dứt. Nhã tháo chiếc vòng ngà voi chạm trổ tinh vi, một
tác phẩm nghệ thuật của Nhã ra tặng Ngọc, người
yêu của nhạc sĩ Ban. Anh giữ bàn tay Ngọc hơi lâu, quì
xuống định hôn.
Nhạc sĩ Ban nhìn
Nhã cười to lên khiến Nhã bối rối. Anh buông tay Ngọc,
đứng bật dậy, im sững như trời trồng, mặt tím ngắt.
Cả người Nhã như bốc lửa. Câu chuyện qua đi. Nhưng
lúc ấy, ý nghĩ giết nhạc sĩ Ban để rửa nhục thành
hình trong óc Nhã và còn đeo đuổi Nhã lâu về sau.
- Nó ngạo mạn, coi
thường tôi. Tôi sẽ giết nó. Giết thằng Ban đó.
NGƯỜI ĐÀN BÀ
ĐIÊN
Trong thời gian đi
lấy đá với Nhã, thỉnh thoảng chúng tôi cũng bỏ thì
giờ đi lang thang hết đồi này qua núi nọ. Nhã hay đưa
tôi lên một khu đồi nghĩa trang. Một hôm, chúng tôi ngồi
dưới một tàng thông lớn. Nhã đã kể lại cho tôi nghe
chuyện tình của Nhã với người đàn bà điên trong nghĩa
địa.
- Anh có thấy cái
hố kia không? Tôi nhìn theo hướng mắt Nhã. Cái hố
nông chỉ ngang thắt lưng một người bình thường, trông
giống như một lỗ huyệt.
- Trước đây nó
sâu hơn, giờ bị đất bồi nên mới cạn như vậy. Tôi
vẫn hay lên ngồi đây một mình để nhớ người đàn bà
ấy, từ khi nàng rời khỏi đây...Sau gần tám năm cải
tạo về, anh biết cái thành phố du lịch từng được
gọi là “Petit Paris” này ra sao không? Cây cối xơ xác,
hồ Xuân Hương cạn kiệt, đường sá ổ gà ổ voi. Xứ
hoa nở ven đường không một bông hoa, khu Hòa Bình là một
đống rác. Yersin bị coi là Tây phản động, bỏ tượng,
bỏ tên đường... Không còn khách du lịch.
Nhã như người bị
lạc vào một xứ sở xa lạ không quen biết. Cả ngày đi
lang thang khắp thành phố với cặp mắt vô hồn. Một
hôm, Nhã đi lên ngọn đồi nghĩa địa, trẻ con chạy
theo gọi giật lại:
- Chú đừng vô, sợ
lắm, có bà điên.
- Bà điên nào?
- Bà điên ở dưới
hầm.
Nhã đâu còn biết
bà điên ông tỉnh gì, chàng cứ đi bừa. Quang cảnh im
lìm của những ngôi nhà người chết khiến tâm hồn Nhã
lắng dịu. Anh ngồi trên một ngôi mộ xây. Cho đến
chiều tối, khi Nhã đứng lên định ra về thì anh nghe có
tiếng con gái cười. Nhã không tin ma quỉ, nhưng lúc đó
anh không kềm hãm một cảm giác lạnh sống lưng. Anh lắng
tai nghe. Theo chiều gió, thỉnh thoảng tiếng cười lại
đưa đến. Nhã lần mò theo hướng tiếng cười phát ra
đi tìm. Anh đi ngang dọc cả mấy tiếng đồng hồ nhưng
tiếng cười không định hướng, một lúc mất hẳn. Ma
chăng? Anh trở về lòng bồn chồn. Liên tiếp mấy hôm
sau, Nhã đều lên nghĩa địa để tìm nguyên do. Nhưng vô
hiệu. Một lần, anh đem chuyện nghe tiếng cười nói với
một bà cụ ở gần nghĩa địa. Bà cụ thản nhiên nói:
- Chú không biết đó
thôi. Ở đây ai cũng biết. Đã mấy tháng nay rồi. Con
Hồng, con gái ông Hai Diêu bên hồ Than Thở. Nó có chồng
bộ đội, đi đánh bên Campuchia chết trận. Nó nhớ nó
thương rồi nó phát điên. Ngày nói đem xác về chôn, lỗ
huyệt đã đào sẵn mà chờ mãi chẳng thấy. Nó nhảy
xuống đó ở luôn từ đó đến nay. Ai kêu cũng không
lên. Đêm đêm nó khóc lóc, có khi cười. Chú nghe đó.
- Bác biết cái
huyệt chỗ nào không?
- Cái đồi đó quá
rộng, tui đi khắp, không biết chỗ mô. Sắp nhỏ thì
rành lắm. Cu ơi! Ra bà bảo.
Con dắt chú chỉ
chỗ cô Hồng ở giùm bà.
- Hông! Con sợ bà
điên lắm!
- Cô điên nhưng cô
hiền, con à. Có gì mà sợ. Đi bà thương.
Nhã đến nơi. Cái
huyệt đào khoảng một thước rưỡi sâu. Dấu đất còn
mới. Cỏ mọc sâm sấp chung quanh. Nhìn xuống Nhã thấy
mấy cái áo rách, một cái chén nhựa, và một chiếc đũa.
Không có dấu hiệu gì có sinh hoạt ở đó.
- Cô Hồng đâu rồi
cháu?
- Bà điên đi xin ăn
ngoài chợ, tối mới về.
Hôm sau tôi canh thật
sớm đón Hồng thức dậy. Nhã kể. Tôi chờ mặt trời
lên quá sào thì Hồng xuất hiện. Cô ta đi từ dưới
chân đồi lên. Hồng khoảng hai mươi lăm tuổi, nhưng tóc
tai bù rối, mặt mày dơ bẩn, áo quần rách nát tơi tả
nên thoạt nhìn không đoán ra tuổi tác. Chỉ có hai con
mắt trong sáng, long lanh. Nàng nhìn tôi, tôi có cảm tưởng
mắt nàng là một tấm gương thần, tôi thấy hình bóng
tôi in trong đó thật thuần hậu. Đó chính là con người
thật của tôi. Không phải một tôi khổ não, dật dờ
như hiện tại. Tôi đón đường chào Hồng, nàng tránh đi
đường khác. Tôi chạy theo. Tôi gọi nàng Hồng, cô Hồng.
Cô đâu có nghe tiếng tôi. Nàng không còn nghe tiếng con
người nữa. Có thể nàng nghe âm thanh, nhưng không còn
hiểu. Tôi theo nàng ra chợ. Nàng đi đâu tôi theo đó. Tôi
tìm cách bắt chuyện, gợi nàng nhớ lại thế giới nàng
đang sống, nhưng vô ích. Hồng ngồi xuống vệ đường,
ai cho gì ăn nấy, đến tối về ngủ dưới huyệt. Mấy
lần tôi đem thức ăn đến cho Hồng nhưng nàng không hề
ăn. Cả áo quần nữa cũng không thay. Tôi hết sức lo
lắng cho Hồng nhưng nàng là người của thế giới khác,
tôi không xâm nhập nổi. Rồi tôi khám phá ra lòng mình,
tôi đã yêu Hồng, cô gái điên ấy. Tôi yêu nàng, muốn
săn sóc lo lắng cho nàng nhưng tôi bất lực. Điều ấy
càng dằn vặt vò xé lòng tôi...Thời gian trôi qua, có lẽ
cả tháng rồi từ ngày tôi gặp Hồng. Tôi làm cái bóng
của Hồng. Nàng đi tôi đi, nàng ngừng tôi ngừng. Tôi
trông chừng nàng. Chiều tối nàng về tôi theo về. Đêm
nàng ngủ dưới huyệt, tôi nằm trên mé. Rồi một hôm
tôi bận việc không theo nàng được, buổi chiều về tôi
chạy bay lên nghĩa địa tìm nàng. Nàng vừa mới về đang
tìm đường đến lỗ huyệt. Trăng mười sáu tròn vạnh
vừa nhô lên trên dãy đồi trọc. Nàng đi xiêu vẹo như
người say rượu. Tôi chạy theo Hồng, đưa tay đỡ nàng,
nhưng nàng phát chạy. Tôi rượt theo. Khi còn cách lỗ
huyệt vài bước, nàng ngã chúi và lăn xuống hố, tôi lỡ
đà cũng ngã đè lên nàng.
- Trời ơi! Hồng
ơi! Tôi kêu lên. Em có sao không? Anh giết em rồi Hồng
ơi! Nàng nằm im lìm. Tôi cúi xuống nghe nàng thở. Một
mùi hôi xông lên mũi. Tôi bồng Hồng trên tay, mắt nàng
nhắm nghiền, thở nhè nhẹ. Ánh trăng chiếu xiêng, bóng
tối thành hố che một nửa người nàng, mặt nàng ánh
trăng soi rõ. Trăng lên cao. Những khoảng rách áo quần
nàng hở lộ ra da thịt dưới ánh trăng như phát sáng.
Bỗng mây đen che khuất trăng, gió nổi lên và cơn mưa
giông ập đến. Tôi muốn bồng nàng chạy tránh mưa nhưng
không kịp. Tôi ôm nàng. Lấy thân tôi che mưa cho nàng.
Nàng vẫn nhắm mắt, thản nhiên đón nhận cơn mưa không
hay biết. Mặt nàng được rửa sạch, một gương mặt
thanh tú. Tay nàng được rửa sạch, đôi bàn tay ngón thon
đầy đặn. Tóc nàng được rửa sạch, mái tóc dài rất
đàn bà ướt đầm đìa.
- Hồng ơi! Tôi kêu
lên. Anh yêu em! Anh yêu em! Tôi hôn tới tấp lên mặt, lên
cổ lên ngực nàng. Tôi xé áo quần nàng. Tôi yêu nàng
như giông gió giữa cơn mưa tầm tả. Tôi gào thét theo
tiếng sấm Hồng ơi! Anh yêu em! Hồng ơi! Anh yêu em! Cơn
mưa ngớt. Hồng lả đi trong tay tôi. Da thịt trần truồng
của nàng và tôi lấm lem như hai con cá trong hố bùn. Nước
ngập nửa lỗ huyệt. Mây tan. Trăng rằm lộ ra. Bỗng
nàng mở mắt. Đôi mắt trong sáng dưới ánh trăng nhìn
tôi không chớp. Tôi cúi xuống hôn nàng. Tôi gọi tên
nàng, nhưng đôi mắt chỉ phản chiếu ánh trăng và hình
ảnh chân thực của tôi, nàng không tỏ có dấu hiệu gì
biết đến thế giới con người. Sau đêm ấy, hầu như
tôi luôn luôn sống bên cạnh Hồng. Tôi che cho nàng căn
chòi nhỏ.
Lúc đầu nàng cứ
xuống ngồi dưới chòi huyệt úng nước, sau dần nàng
nghe lời tôi chịu ở trên chòi. Chúng tôi yêu nhau. Đúng
hơn là tôi yêu Hồng. Nàng thụ động, không chống cự,
không đồng tình, mặc tôi muốn làm gì thì làm. Bây giờ
thì nàng không còn dơ dáy nữa. Ăn mặc đàng hoàng, nàng
là một cô gái đẹp. Chỉ duy một điều nàng luôn chìm
đắm trong thế giới của riêng nàng. Lâu sau này, có một
lần trong ân ái, tôi nghe nàng rên rỉ, khi tôi mặc quần
áo lại cho nàng, nàng nhìn tôi rồi cúi mặt xuống.
- Hồng ơi! Tôi mừng
rở kêu lên. Tôi ôm nàng trong tay vổ về. Em yêu! Em nhận
ra anh không? Em tỉnh lại chưa? Tôi ghì đầu Hồng vào
ngực, nghe như có sức nặng và nàng giấu mặt vào ngực
tôi. Tôi mừng rỡ nâng mặt Hồng lên, nhưng ánh mắt
nàng trong như một mặt gương vẫn chìm sâu trong thế
giới nào làm tôi thất vọng.
Tôi mất Hồng. Hôm
sau lần ân ái cuối cùng đó, tôi trở lại không thấy
nàng đâu nữa. Tất cả mọi vật dụng, áo quần đều
còn nguyên. Tôi đổ ra đi tìm nàng khắp thành phố. Không
có hang cùng ngõ hẽm nào tôi không xục tới. Tôi lên nhà
nàng ở hồ Than Thở hỏi thăm, cha mẹ nàng không biết.
Tuyệt vọng, tôi trở lại căn chòi, nơi để lại trong
tôi biết bao kỷ niệm yêu thương về nàng. Tôi ăn, tôi
ngủ ở đó hàng tháng liền, mong một ngày nàng trở về
nhưng bặt vô âm tín. Tôi dỡ căn chòi, thu dọn đồ đạc
vất xuống lỗ huyệt, lấp đất chôn, như chôn chặt mối
tình với Hồng. Hồng ơi! Cô gái điên yêu quí của anh
ơi!
Chuyến xe đò Sài
Gòn – Đà Lạt chết máy dưới chân đèo Bảo Lộc.
Những người bán hàng ùa ra bán chôm chôm, sầu riêng,
trứng gà luộc, các loại bánh trái. Nhã xuống xe đứng
chờ. Một cô gái đến mời Nhã mua thuốc lá. Nhã từ
chối. Nhưng khi một đứa bé đến mời, Nhã mua một gói
thuốc “Mai”
- Con không có tiền
thối, chú ơi! Thằng nhỏ nói khi Nhã trả tiền bằng
giấy mười đồng. Nó ngần ngừ một chốc rồi nói:
- Để con gọi má
con tới thối cho chú hen. Nó chạy đi. Người đàn bà cụt
chân, một tay chống nạng, một tay cặp rổ trứng gà
luộc, mắt chột, mặt lấm tấm rỗ đen đi tới:
- Má con đó chú!
Thằng bé nói.
- Anh mua trứng luộc
không? Anh mua giùm khỏi thối.
- Ừ! Tôi lấy hai
trứng.
- Lấy thêm đi! Mới
có hai đồng, còn ba đồng nữa. Nhã tức cười:
- Ừ! Tôi lấy thêm
một trứng.
Người đàn bà vừa
đếm tiền thối, vừa liếc nhìn Nhã đang hút thuốc:
- Thôi! Chị giữ
hết đi. Tôi cho cháu tiền quà!
- Cám ơn ông. Chị
nhìn Nhã cười như mếu.
Xe chạy được một
quảng quay lại, Nhã thấy người đàn bà và đứa bé
đang đứng nhìn theo. Chị cúi xuống nói gì với đứa
nhỏ. Nó đưa tay lên vẫy theo Nhã. Theo thói quen, Nhã đưa
tay lên vẫy lại. Xe chạy xa dần. Hai mẹ con còn đứng
nhìn theo. Đứa bé còn vẫy tay mãi cho đến khi xe rẻ
khuất ở một khúc quanh, hình như nó muốn chạy theo.
Nhã nhận được
một lá thư. Thư gởi đúng tên họ, đúng địa chỉ,
không có tên người gửi.
Bảo Lộc,
ngày.....tháng..... năm......
Anh Nhã
Nếu
em trách anh vô tình, điều ấy cũng làm em buồn, vì em
biết anh đâu phải người vô tình. Có lẽ thời gian đã
làm em thay đổi nhiều và hoàn cảnh trớ trêu đã đẩy
chúng ta cách xa nhau đến nổi lúc gặp nhau anh không nhận
ra em nữa. Tất cả là do lỗi của em. Kể từ lần ân ái
cuối cùng, tình yêu của anh đã làm em sống lại. Em tỉnh
ra từ một cơn mê dài. Sự tuyệt vọng đối với người
chồng tử trận đã đưa em vào cơn mất trí, nếu không
có tình yêu của anh, có lẽ em không còn trở lại làm
người. Ơn đó của anh bằng ơn cứu tử, như em đã chết
đi và anh là người đã cứu em sống lại...Sau lần đó,
em biết mình đã có thai. Một niềm vui lẫn xấu hổ vô
lối xâm chiếm em. Một con điên sắp sửa có con với
anh. Ý nghĩ đó khiến em không sao chịu nổi. Mong anh hiểu
lòng em và tha thứ cho em. Em bỏ anh mà đi, đành lòng như
vậy, anh ơi!
Em
về ở dưới chân đèo Bảo Lộc, làm thuê, làm mướn
kiếm sống. Em bỏ anh, trốn anh mà không hiểu cặn kẽ
vì sao. Anh yêu em và em cũng yêu anh
Mà!
Cái thai lớn dần, em đuối sức. Người đàn ông là
chồng em hiện nay đã thương yêu, giúp đỡ em sinh nở.
Em cũng không thể phụ lòng anh ấy. Ảnh cũng là sĩ quan
cải tạo như anh. Theo chính sách Nhà nước, tụi em đi
kinh tế mới làm rẫy. Em bị mìn cóc ra người tàn tật.
Sau một thời gian nằm nhà thương, tụi em trốn đại về
quê cũ buôn bán kiếm sống qua ngày, địa phương cũng
không làm khó dễ gì, vì người bỏ trốn về quá đông.
Em
đã nhận ra anh nhiều lần trên những chuyến xe đò Sài
Gòn – Đà Lạt ghé lại vội vàng. Em muốn gọi anh,
nhưng có cái gì đó đã ngăn em lại. Có một lần em lên
Đà Lạt, đi theo anh về đến cổng nhà mà anh không biết.
Đi theo để làm gì, tự em cũng không trả lời được.
Em ra về và em khóc. Anh đã có gia đình, em cũng vậy, lại
thân tàn ma dại. Níu kéo chỉ thêm đau khổ mà chắc gì
anh còn thương yêu em. Lần gặp anh vừa qua như trời xui
khiến. Rất may anh không nhận ra em. Em giả lơ mà lòng
chết điếng. Mãi khi xe anh đi rồi em mới gọi con lại
nói cho nó biết anh là cha ruột của nó. Nó muốn chạy
theo, nhưng chân nhỏ làm sao đuổi theo được xe hơi. Con
đứng vẫy anh, em rơi nước mắt.
Đường
đời mỗi người mỗi ngã. Em luôn luôn cầu trời khấn
phật phò hộ anh và gia đình được mạnh khỏe. Em sẽ
nuôi con, chừng nào nó lớn khôn em sẽ cho nó trở về
với anh.
Bức thư không
ký tên.
Xem xong thư, Nhã tức
tốc ra đón chuyến xe đi Bảo Lộc... Nhã hỏi thăm nhà
Hồng suốt một ngày không ai biết.
- Cô bán trứng gà
luộc, cụt chân, một mắt, có đứa con trai nhỏ 5, 6
tuổi. Nhã hỏi thêm.
- Chắc con Ba, một
chị bán trái cây nói.
- Ừ! Bà cụ ngồi
gần bên tán đồng. Chỉ có con Ba bán trứng luộc, cụt
chân, một mắt, có con trai 5 tuổi. Mà ông hỏi chi vậy.
Có bà con gì không? Gọi con Ba chứ không phải Hồng.
- Nhà chị Ba ở đâu
bác?
- Nó dọn đi rồi.
- Bác biết đi đâu
không?
- Nó có nói gì đâu
mà tui biết.
Chị
bán trái cây nhanh nhẩu :
- Nó đi Sài Gòn.
Nhã đón xe Sài Gòn
đi ngay. Đứng ở bến xe, Nhã thấy Sài Gòn mênh mông
biết tìm Hồng ở nơi nào. Nhã nhớ đến Thanh. “Mình
sẽ về nhà Thanh tá túc một thời gian. Nhắc Thanh việc
thực hiện “Tháp Hòa Bình”. Và ý nghĩ giết nhạc sĩ
Ban trở lại. Nhã đứng hồi lâu trong bóng đêm giữa bến
xe tấp nập. Nhã cuối cùng nhận ra rằng tất cả những
việc đó đã thuộc về quá khứ: Tháp Hòa Bình, mối
tình đối với Hồng, ý nghĩ giết nhạc sĩ Ban. Trên
chuyến xe trở về Đà Lạt, lúc xe ngang qua chỗ dừng,
Nhã thấy hình ảnh hai mẹ con Hồng đứng nhìn theo, đứa
bé vẫy tay. Bất giác Nhã đưa tay định vẫy lại, nhưng
tay Nhã chợt rơi xuống như bị một sức kéo, không tự
chế – rồi xe lại khuất, ở một khúc quanh./.