Trời cuối năm gió nghiêng nghiêng thổi
qua hàng cây sua đủa bông nở trắng xóa. Vài cánh hoa bị
gió cuốn, giần giật bay về phía bờ ao xanh những nhánh
rau nhúc bập bềnh. Phía xa là cánh đồng lầy đầy cỏ,
cây tạp và những dề lục bình tím ngắt như một điểm
nhấn u buồn trên bức tranh màu lạnh.
Mẹ tôi đang ngồi vo gạo bên lu nước
mưa hứng từ tháng tám chợt ngừng tay rồi nhìn về phía
cánh đồng. Hình như mẹ muốn nói điều gì? Tôi lên
tiếng trước: “Sao người ta lại gọi cánh đồng nầy
là đồng Chó Ngáp, hở mẹ?”. Lúc đó tôi chỉ là một
đứa bé mới bảy tám tuổi với rất nhiều thắc mắc
về cánh đồng hoang dại nầy. Ở đây chỉ lác đác mươi
ngôi nhà tre mái lá cách xa nhau chừng một tiếng hú.
Chủ nhân của những ngôi nhà xiêu vẹo ấy là dân tứ
xứ trôi dạt về đây sống hẩm hút bên mép bờ dãi đất
cao lúp xúp những cây trâm bầu, sua đũa chùm lé gai. Về
đêm, nhất là vào những đêm cuối năm khi trời trở mùa
gió Bấc, gió vụt qua cánh đồng lầy chợt hú lên. Tôi
rất sợ tiếng hú đó. Mẹ hiểu ý nên thường ôm choàng
lấy tôi và nói thì thầm: “Đừng sợ, có mẹ đây. Đó
chỉ là tiếng gió thế thôi”.
“Mẹ ơi, sao người ta lại gọi cánh
đồng nầy là đồng Chó Ngáp, hở mẹ?”, tôi lập lại
câu hỏi. Mẹ tôi nhìn tôi ngập ngừng một lát rồi lại
nhìn ra cánh đồng mông quạnh, nén một tiếng thở:
“Người ta nói cánh đồng nầy rộng lắm, một con chó
săn giỏi lắm chỉ chạy chưa đến nửa cánh đồng là
đã thè lưỡi ngáp dài rồi. Nói thế để thấy rằng
cánh đồng này xa lắm, xa đến tận chân trời…”.
Tôi tự nghĩ trong lòng: sẽ có hôm tôi đi
phiêu lưu mạo hiểm qua ngang cánh đồng bao la bát ngát
nầy xem thử coi nó rộng đến đâu? Nó không thể nào cứ
xa mãi, xa mãi được. Phải có một chỗ nào đó nó dừng
lại, chỗ có xóm làng, nhà cửa và người ta. Lẽ nào
cánh đồng lầy nầy sẽ đi vào nơi vô tận cho dù người
ta có đi hàng tháng hàng năm trời vẫn còn thấy cái mênh
mông còn mãi mênh mông trước mặt? Lẽ nào? Tôi nói với
mẹ tôi khi hai mẹ con ngồi bên bếp lửa chiều: “Sẽ
có một ngày con đi băng ngang qua cánh đồng nầy, chắc
chắn ở cuối đường chân trời ấy phải có một thành
phố nào đó đông vui”, Mẹ tôi ngưng tay đẩy mấy
thanh củi vào cái bếp lò đang cháy mắt trợn lên kinh
hãi: “Con nói gì, con sẽ đi qua cánh đồng Chó Ngáp à?
Trời ạ, đừng đừng, chỗ ấy có đi mà không có về
đâu con trai của mẹ”.
Sao thế nhỉ? Cái gì có đi mà không có
về? Nơi ấy có hùm beo, rắn rít hay yêu quái ăn thịt
người? Tôi chẳng mấy tin. Mẹ âu yếm vuốt tóc tôi nói
như muốn khóc: “Ngày xưa, lâu rồi lúc mẹ sắp sinh con
thì có một hôm cha con cũng nói như thế. Ông ấy bảo
phải đi qua được cánh đồng nầy mới có cuộc sống
tốt hơn. Cha con nói cuộc sống là phải sống ở giữa
nhiều người, có nhà cửa, có đường phố, có ánh đèn,
có quán xá. Ở giữa cánh đồng cằn cõi nầy không thể
được coi là cuộc sống. Và con ơi, cha con đã đi qua
cánh đồng đến nay quá tám năm mà vẫn chưa thấy trở
về…”.
Cha tôi là ai nhỉ? Ông ấy ra sao, cao gầy
mà nghiêm nghị hay đẩm thấp mà vui tính? Tôi thử
hình dung ra một khuôn mặt của người nhưng trong tâm trí
non nớt của tôi những hình ảnh ấy chỉ mơ hồ, tản
mạn như những lớp mây xốp biến ảo trôi bềnh bồng
trên cánh đồng xanh hoang vắng nầy.
Trời đang rủ dần màu tối trên cái cỏi
mênh mông nầy. Gió cuối tháng Chạp thổi vù qua ngang
cánh liếp đưa chút giá lạnh vào chỗ hai mẹ con tôi
ngồi. Ngọn lửa bếp cơm chiều cháy lay lắt. Trên nền
trời thẳm đen nhú ra vài ngôi sao sáng xanh như màu sáng
của những con đom đóm. Ánh lửa hắt lên khuôn mặt mẹ
tạo ra những mảng tối sáng sống động. Tội nghiệp
mẹ, nét mặt mẹ hiện ra vẻ khắc khổ và một sự chịu
đựng thật khó tả. Tôi nắm tay mẹ: “Lớn lên chút
nữa con sẽ đi tìm cha và chắc chắn là con sẽ trở
về với mẹ. Con ghét cánh đồng nầy, nó không thể dài
mãi để không có người nào có thể vượt qua. Con thích
nhà cửa, phố xá, xe ngựa đông vui. Ở đây buồn quá,
sao chỉ có hai mẹ con mình?”. Mẹ tôi chỉ tay về phía
những đóm sáng nho nhỏ hiện ra trong những chòm cây
lúp xúp: “Đâu chỉ có hai mẹ con mình. Con quên rằng
còn có những căn chòi lá kia sao? Ở đó người ta cũng
đang nấu những bữa cơm chiều”.
Tôi nhớ ra rồi, cái đóm sáng leo lét nằm
dưới ngôi sao Hôm là nhà của một cặp vợ chồng già,
ông chồng chuyên đi bắt rắn bắt lươn. Xa hơn một chút
mái nhà nằm dưới ngôi sao Vua là mấy căn chòi tả tơi
nơi có mấy gia đình sống bằng nghề đi câu cá, câu ếch
trong các ao hồ, đầm lầy giữa đồng Chó Ngáp. Một đóm
sáng chập chờn phía cuối sao Lưỡi Cày là mái lều tả
tơi của một lão trung niên đầu trọc tuếch chuyên đi
lặn móc củ sen, củ súng. Người đàn ông nầy sống một
mình mà năm nào đến mùa xuân tôi cũng thấy từ ngôi
nhà nát ấy một con diều sáo màu đỏ thắm cũng vi vút
bay lên giữa bầu trời xanh lồng lộng gió.
Năm nào cũng vậy vào ba ngày tết tôi cứ
ngồi bên hàng hiên ngắm con diều giấy màu đỏ bay lơ
lững giữa trời và nghe tiếng sáo vi vu của nó phát ra
giữa thinh không. Có lúc tôi nghe tiếng sáo vui tai như một
khúc nhạc xuân, song cũng có khi tiếng sáo diều lại tự
dưng trở nên buồn bã, âm điệu nỉ non lan tỏa giữa
cánh đồng mông quạnh. Có khi mẹ tôi cũng ra ngồi cạnh
tôi cùng ngắm cánh diều và lắng nghe tiếng sáo của nó
bay theo tiếng gió lúc gần lúc xa. Hồi đó cha con
cũng biết làm diều, năm nào ông ấy cũng làm một con
diều rõ to và thả bay ngày nầy qua ngày khác trên cánh
đồng nầy”, mẹ nói chầm chậm giọng trầm trầm. Tôi
mơ ước có được con diều ấy. Giá như cha tôi còn ở
đây có phải giờ nầy tôi cũng có được một con diều
màu đỏ thắm như thế bay lượn và ngân nga điệu sáo
giữa trời xanh? Tôi biết cha tôi có thể làm mọi điều
cho tôi nếu như có còn ông ấy.
Một buổi trưa tôi lén mẹ đi ra cánh
đồng. Men theo những lối mòn uốn lượn giữa những lùm
cây lúp xúp, những bụi cỏ cao quá đầu người tôi đi
về phía nhà người đàn ông có một con diều sáo màu đỏ
sáng như một điểm nhấn rất sinh động giữa màu
trời xanh miên man oải chán. Lạ thật, ở xa trông thấy
mái lều ấy cũng chỉ gần thôi nhưng đi rồi thì lại
thấy hình như nó cứ lùi xa mãi, xa mãi ở đâu đó tận
cuối chân trời. Có phải vì điều bí ẩn của một
không gian không đơn điệu mà con mắt người ta dễ bị
đánh lừa? Vì thế mà cánh đồng Chó Ngáp dường như vô
tận, như thể nó luôn luôn chờ chực để đùa nghịch,
để bẩy những bước chân của ai muốn đi qua nó, muốn
chinh phục nó.
Nhưng cuối cùng tôi cũng đến được
dưới chân cái điểm nhấn màu đỏ đang ve vẩy chiếc
đuôi dài tha thướt trên khoảng trời cao. Có tiếng sủa
của một con chó từ chiếc lều lá rách tơi tả phát ra.
Một cái đầu trọc tuếch với một bộ mặt lừ đừ
men rượu thò ra từ một lỗ thủng: “Ai đó? Vô đi”.
“Dạ cháu, cháu đến thăm chú đây”, tôi nói nhỏ nhẻ
ngập ngừng.
Người đàn ông nạt con chó cho tôi bước
vào. Ông ấy ngồi trên một tấm chiếu trước một mâm
rượu thịt ê hề. Như đoán được tôi sẽ nghĩ gì về
chuyện nhậu nhẹt một mình với mâm cao cổ đầy nầy
người đàn ông nhếch môi: “Gia tài có hai con chó mà
một con tự dưng ngã đùng ra. Và ta đã làm thịt nó,
miếng đem hon, miếng ướp muối xả nướng. Đúng là cao
lương mỹ vị cho mấy ngày xuân sang. Sao, làm một miếng
chớ nhỏ?”. Tôi lắc đầu, ông ta có vẻ không hài
lòng: “Rượu ngon, thịt béo không dùng, vậy mày đến
đây làm chi?”. Tôi nói tôi thích con diều sáo của ông
ấy và năn nỉ ông nếu có thể thì làm cho tôi một con
như thế.
Người đàn ông đầu trọc vói hai con mắt
đỏ vì men rượu nhìn tôi chầm chậm từ đầu đến
chân rồi hỏi có phải cái chòi lá của tôi nằm dưới
mấy hàng cây sua đũa ở phía đông cánh đồng. Tôi nói
phải, chính đó là nhà của mẹ tôi. Tự nhiên ông ta
nhăn mặt: “Sao mẹ mày không có chồng để mày có người
làm diều cho chơi? Mày thích con diều à, chuyện dễ như
trở bàn tay. Nhưng mày chiều lòng tao đi, là ăn một
miếng thịt chó mới được. Ăn đi con, trông mày còm cỏi
quá, đâu phải dễ gì để có một bữa rượu thịt như
tao.
Muốn có diều thì phải ăn một miếng
với thằng Tư cô đơn nầy”.
Bất đắc dĩ tôi phải ngồi xuống
tấm chiếu rách bươm của lão Tư cô đơn. Ông ta gắp
cho vào chén tôi một miếng thịt cầy. Tôi ăn thử, xem
ra cũng ngon. Nhìn tôi ăn với nét mặt khó khăn ông Tư cô
đơn cười hà hà: “Ngon mà nhỏ. Ta là một tay thợ nấu
ăn có tiếng đấy nhóc ạ, chẳng phải đụng ai ta
cũng mời ăn nhậu đâu”.
Sau buổi ăn ông ta dắt tôi ra sân đến
dưới gốc cây trứng cá kéo con diều xuống. Con diều
lớn dần, lớn dần, và cuối cùng nó nằm gọn trên tay
ông Tư: “Đây, chú cho cháu. Về hãy thả lên trời, nhớ
cột một đầu dây vào mấy cây sua đũa cho chắc. Nhớ
thả cho hết dây, ta ở đây vẫn muốn nghe tiếng nhạc
của sáo diều vi vu trên cánh đồng Chó Ngáp nầy không
có diều sao có thể là mùa xuân? Thôi về đi, nhớ cẩn
thận đừng đi lạc vào các đầm lầy đấy”.
Tôi mang con diều về thấy mẹ tôi mặt
xanh tái. Mẹ bảo đã chạy khắp nơi tìm tôi. Thế nhưng
khi bà nhìn thấy con diều giấy to đùng mà tôi đang khệ
nệ vác trên vai thì bà mắng: “Ai cho con đi qua nhà ông
Tư ấy? Con xin con diều của ông ấy phải không? Lần sau
còn sang bên ấy chắc chắn mẹ sẽ cho con một trận
đòn”. Nói thì nói vậy rồi mẹ cũng phụ với tôi để
thả con diều giấy từ từ lên cao. Ở đâu thiếu gió
chớ trên đồng Chó Ngáp nầy gió rất hào phóng, và thổi
lộng suốt ngày đêm. Vì thế con diều sáo của tôi sẽ
bay mãi, bay mãi cho đến khi nào giấy bọc cánh diều bung
ra khỏi cái khung tre thì sẽ chấm dứt đời diều và nó
sẽ rơi xuống.
Buổi trưa ngày ba mươi tết tôi nằm
ngoài mé hiên nhà gối đầu lên chân mẹ để ngắm con
diều tung bay trên khoảng trời xanh lồng lộng gió. Tiếng
sáo diều vi vút lúc bỗng lúc trầm ngân nga loang xa trên
cánh đồng ngập ánh nắng xuân. Giờ nầy chắc ông Tư
cô đơn bỏ cơn say và nằm ngữa trước hiên nhà ngước
lên ngắm cánh diều quảy lộn giữa thing không. Mắt tôi
và mắt ông ấy gặp nhau trên một điểm duy nhất là
cánh diều đỏ thắm lay động giữa khoảng trời xanh.
“Cám ơn ông nhé, ông Tư!”.
Mùa xuân năm tôi mười tám tuổi mẹ tôi
đi thêm bước nữa với người chồng mới: ông Tư cô
đơn. Tôi buồn nhưng không phản đối mẹ. Chính từ khi
tôi xin ông ấy con diều đầu tiên thì cứ mỗi lần đến
mùa xuân đến ông Tư lại mang tặng cho tôi một con diều
mới. Tuổi thơ của tôi lớn dần theo từng con diều giấy
và cũng từng năm tháng ấy mẹ tôi đã quen và phải lòng
người đàn ông cũng sống một mình đơn chiếc như bà.
Bấy giờ tôi đã đủ lớn và đủ hiểu
được rằng, không có người đàn bà nào sống thiếu
một người đàn ông. Và ngược lại cũng không có người
đàn ông nào sống được khi thiếu một người đàn bà
bên cạnh.
Tôi cũng đủ lớn rồi, tôi cũng đã
nghe trong tôi có tiếng gọi của một người con gái nào
ấy, tiếng đó xa vắng và ngọt ngào giống như tiếng
sáo diều vi vu trên cánh đồng Chó Ngáp. Buổi trưa trước
khi ông Tư cô đơn dọn về đây mẹ ngồi ngoài hiên vuốt
ve tóc tôi, giọng mẹ nghèn nghẹn: “Mẹ là đàn bà nên
cũng cần phải có một người đàn ông phụ giúp mẹ để
nuôi con. Hơn mười năm ông Tư đã thay cha làm cho con
những con diều giấy, mẹ mang hơn mười lần cái ơn của
ông ấy. Và nhà ta sẽ thêm một người để bớt cảnh
quạnh hiu…”.
Tôi thấy mắt mẹ rưng rưng vì xúc cảm.
Vâng, mẹ vẫn còn quá trẻ, mới bốn mươi thôi mà đã
mười bảy mười tám năm thiếu vắng một người đàn
ông bầu bạn.
Mai mốt đây thôi, tôi cũng sẽ như cha
tôi, tôi sẽ đi băng qua cánh đồng nầy. Tôi sẽ đi về
phía nơi có một thành phố nào đó, tôi sẽ thay tiếng
sáo diều bằng tiếng nói êm đềm của một người con
gái, thay cái nắng cái gió bằng ánh sáng của kinh thành,
phố xá ngựa xe. Tôi yên lặng giấu mẹ chuyện nầy.
Vâng tôi sẽ lên đường, tôi sẽ để lại nơi đồng
Chó Ngáp nầy cuộc sống mới với mùa xuân và hạnh phúc
cho mẹ. Tôi sẽ là một con diều thật, bay đi, bay đi…
Vẫn nằm trên chân mẹ ngắm cánh diều
vi vu hay lượn trên bầu trời mùa xuân sao tự dưng có
một giọt nước mắt nóng hổi lăn dài trên má tôi…