Hiền
thật không ngờ, anh lại dám ra đây một mình!”
“Có
gì đâu mà không dám!”
Người
đàn bà trạc ngoài năm mươi, có mái tóc ngả màu cùng
gương mặt tái nhợt quay sang giải thích:
“Em
thấy Việt kiều về nước, đi đâu cũng đều có người
nhà sát cánh ngay bên cạnh, chứ đừng nói tới chuyện
đi xa như anh! Riêng có anh thì ngoại lệ. Dầu sao anh
cũng nên cẩn thận thì hay hơn. Đi xa anh nên bảo Hòa
hoặc ai nấy tháp tùng với anh cho an toàn. Anh đừng
tưởng người ta không biết đâu! Người ta tinh lắm
đấy. Nhất là màu da cùng cách xử dụng tiền bạc. Vả
lại, anh cũng chẳng cần ra đây làm gì! Cứ gọi điện
thoại cho em thì được rồi.”
“Chủ
ý của anh là muốn ra thăm em. Mấy chục năm rồi còn gì
nữa! Dù sao thì anh cũng có lỗi với em rất nhiều.”
Người
đàn bà xua tay lia lịa:
“Dĩ
vãng qua rồi. Anh còn nhắc lại làm gì cho thêm buồn!”
“Hiền
nói vậy! Nhưng lúc nào anh cũng cảm thấy lương tâm
mình bị dày vò, ray rứt.”
“Tại
sao anh cứ bận tâm về cái chuyện đó mãi để làm chi!
Chúng ta bây giờ ai cũng ngoài năm mươi cả rồi. Đầu
óc đâu có còn minh mẫn như thuở nào! Chân tay càng ngày
càng trở nên uể oải, chậm chạp, còn mái tóc thì ngả
màu, bạc phếch theo thời gian. Chắc chẳng còn bao lâu
nữa rồi cũng sẽ lần lượt đi về.”
“Anh
hiểu! Nhưng cuộc đời Hiền trải qua quá nhiều cay
nghiệt. Nó chẳng khác nào như con suối cạn nằm trong
thời kỳ hạn hán. Vì vậy, cứ mỗi lần hồi tưởng
về dĩ vãng, về Hiền, thì y như anh lại cảm thấy xót
xa, ngậm ngùi ở trong lòng. Anh hiểu chứ! Hiền yêu
anh. Hiền đã âm thầm chờ anh suốt mấy năm liền. Mấy
năm ấy anh chẳng hề hay biết gì cả. Cuối cùng, em mới
quyết định lên xe để về nhà chồng. Thật ra thì anh
hoàn toàn có lỗi. Nhưng có điều khiến cho anh phân vân,
thăc mắc mãi, là tại sao lúc bấy giờ em cứ một mực
giữ nguyên thái độ im lặng! Ít nhất em cũng nên cho
anh biết về ý định của gia đình. Mãi cho đến sau
này, khi anh bước chân vào quân đội, trôi dạt về đơn
vị của anh Đại, nhân trong một chuyến hành quân tại
vùng Mỹ Chánh, thuộc quận Phù Mỹ, tỉnh Bình Định,
anh mới biết được cái tin ấy đến thật quá đột
ngột, quá bất ngờ, khiến cho anh cảm thấy sững sờ,
rụng rời cả tay chân. Anh vẫn còn nhớ và nhớ rất rõ
tất cả từng chi tiết:
Hôm
ấy, vào buổi chiều tháng chạp. Một buổi chiều âm u
cuối năm. Buổi chiều với những cơn gió bấc lạnh
lẽo, ồ ạt, ngỗ nghịch thổi về. Sau khi thanh toán
xong cái mục tiêu hóc búa, gai góc, nằm chót vót ngay trên
ngọn đồi cao ngất, hiểm hóc. Cái ngọn đồi quái ác
đó, đơn vị anh đã phải đổi lấy một cái giá quá
đắt, mười người lính hy sinh, đền nợ nước. Còn
hai mươi người khác bị thương, đổ máu, mới chiếm
được cái ngọn đồi nói trên. Suốt cả ngày hôm ấy,
ròng rã từ tám giờ sáng cho đến năm giờ chiều, bọn
anh phải vất vả, dằng co, quần thảo với địch quân,
đếm từng tấc đất một. Trong khi địch quân có lợi
thế hơn mình rất nhiều. Địch ở trên cao, mà lại có
hầm hố kỹ càng. Còn mình thì ở dưới thấp bò lên.
Nói dại, nếu không có những phi tuần bom của không quân
yểm trợ hữu hiệu, chính xác thì bọn anh khó có thể
nào mà chiếm được. Tối hôm ấy, đơn vị anh được
lệnh dừng chân, đóng quân ngay trên mục tiêu mà bọn
anh vừa mới chế ngự được. Giữa lúc anh đang bận
rộn, loay hoay với công tác phòng thủ, thì Đại bất
thần từ trên đi xuống, tiến thẳng đến tận chổ anh
đang đứng. Chờ cho anh phân chia, cắt đặt công tác
xong xuôi đâu vào đấy. Đại lên tiếng dặn anh:
“Anh
nên cẩn thận tối đa về ban đêm. Nhất là từ khoảng
một giờ cho đến ba giờ sáng, anh nhớ chịu khó thức
dạy, đi một vòng để nghe ngóng động tịnh, đồng thời
kiểm soát luôn mấy vọng gác. Địch ở đây ghê lắm!
Chúng nó thường khai thác tối đa về những sơ hở của
ta. Theo kinh nghiệm cho tôi biết, thì chúng hay mở các
đợt tấn công bất thần vào những giờ giấc kể trên.”
Anh
lẳng lặng không nói. Đại chỉ cho anh thấy từng giải
núi ở phía xa. Từng ngôi làng quạnh quẽ, nghèo nàn, xơ
xác. Từng hàng dừa ngả nghiêng, cháy nám vì chiến
cuộc. Anh cho biết, tất cả những nơi đó đều có dấu
chân anh in hằn ở trên đấy. Ngừng lại vài giây, Đại
quay sang hỏi:
“ Thế
nào, anh đã thấy quen chưa!”
Anh
thành thật trả lời:
“ Mới
đấy thì làm sao mà có thể quen được hở, thẩm quyền!
Ít nhất cũng phải mất vài ba tháng nữa, chứ bây giờ
thì vẫn còn bỡ ngỡ như cô dâu mới về nhà chồng.
Thẩm quyền cũng thấy đấy, chúng tôi trước kia đã
quen với lối sống buông thả ngoài dân sự. Rồi, đùng
một cái, có lệnh gọi nhập ngũ, lếch thếch bước vào
quân trường, thụ huấn chẳng bao lâu. Mãn khóa với số
vốn liếng ít ỏi, rồi quăng thẳng ra chiến trường sôi
đọng chẳng chút do dự, thương tiếc, thì thử hỏi, làm
sao mà chúng tôi không bị luống cuống, hoảng hốt!
Chẳng nói dấu gì thẩm quyền, ngay trong lần chạm địch
đầu tiên, thú thật, tôi hết sức là lúng túng và nao
núng. Cũng mong thẩm quyền hướng dẫn thêm về những
kinh nghiệm mà thẩm quyền đã đi qua. Dầu sao đi chăng
nữa, thì thẩm quyền cũng là người đi trước, là cấp
chỉ huy đã dày dạn với những sóng gió, nóng bỏng của
chiến trường.”
Đại
an ủi:
“Từ
từ rồi anh sẽ quen. Chỉ có chiến trường mới dạy
mình, thế nào là bài học xương máu! Có một điều mà
lúc nào anh cũng phải ghi nhớ ở trong đầu, là chớ đừng
bao giờ khinh địch! Khinh địch thì chỉ có con đường
chết. Phải biết người biết ta mới được. Đấy là
câu châm ngôn mà từ cổ chí kim, ai nấy cũng đều phải
học thuộc lòng như cháo chảy.”
Ném
tầm mắt nhìn ra xa, Đại cho biết, anh đang chuẩn bị
lập gia đình. Người vợ sắp cưới của anh là người
Bắc. Cô ta còn rất trẻ, là xướng ngôn viên của đài
phát thanh, là người có giọng đọc hấp dẫn trong các
bản tin tức chiến sự hằng ngày. Anh chớp nhẹ đôi
mắt, giọng anh trở nên nhẹ nhàng, mơ màng:
“ Tôi
mới chỉ gặp cô ấy được hai lần. Cô ta là người
mà chị tôi chấm cho tôi đấy. Chị tôi cứ khen, cô ấy
là người mẫu mực, hoạt bát.
“Muốn
chọn vợ cho cậu thì phải tìm người đàng hoàng, tử
tế, chứ cứ vơ càn vào, thì chẳng khác nào khoác cái
gông lên cổ cậu suốt đời.”
Chị
tôi vẫn thường nói với tôi như vậy. Vì thế, chị
tôi chọn người cho tôi rất kỹ. Tôi cũng chẳng dấu
diếm gì anh, tôi chỉ có hai chị em. Cha mẹ tôi mất sớm
kể từ khi tôi còn nhỏ. Tôi lớn lên trong vòng tay cưu
mang, đùm bọc của chị tôi. Chị tôi lớn hơn tôi tám
tuổi. Bà tảo tần, xuôi ngược, nuôi nấng cho tôi ăn
học, đỗ đạt, rồi đi vào võ bị. Nói xong, Đại rút
ra tấm hình nhỏ bé, xinh xắn, rồi đưa sang cho anh. Thú
thật là anh không thể nào ngờ được! Tấm hình ấy
khiến cho anh choáng váng, xây xẩm cả đầu óc! Tấm
hình ấy đập vào mắt anh với mái tóc óng ả, mượt mà
thả xuống ngang vai. Tấm hình ấy chẳng ai xa lạ, mà là
chính em! Mà tại sao lại là chính em! Anh phân vân, thắc
mắc rồi tự hỏi: Tại sao đời anh lại oái oăm, nghiệt
ngã, éo le đến như vậy! Tại sao! Tại sao! Và tại
sao! Bao nhiêu câu hỏi cứ dồn dập hiện ra chất vấn ở
tâm tư anh! Anh cố mở to đôi mắt, nhìn lại thêm một
lần nữa! Vẫn vẻ mặt quen thuộc cùng nụ cười hồn
nhiên nở trên môi. Vẫn cái khổ hình bán thân, trắng
đen, cũ kỹ của sáu năm về trước, mà em đã trao tận
tay cho anh một cách thật trang trọng, kèm theo mấy hàng
chữ mềm mại, nắn nót, bộc lộ niềm yêu thương nồng
nàn, chất chứa ở trong đấy. Tấm hình ấy đã gắn
bó, gần gũi với anh suốt cả hằng bao nhiêu năm trời.
Nó chẳng khác nào như món hành trang cao quí nhất, theo
sát anh trên các chặng đường hành quân diệu vợi. Đêm
hôm ấy, anh không tài nào giỗ được giấc ngủ! Trong
căn lều vải, anh cứ trằn trọc, thao thức, suy nghĩ miên
man về tình yêu, về cuộc đời, ngổn ngang với nỗi xót
xa, dày vò, tê buốt, chất ngất ở tâm não.”
Hiền
buông mắt nhìn ra xa:
“Anh
nhớ kỹ lại xem! Dạo ấy đến cả mấy năm trời, em
vẫn chẳng nhận được lá thư nào của anh gửi về.
Hơn nữa, em lại là phận con gái. Chung qui cũng tại cái
số của em như vậy. Em chẳng trách cứ gì anh cả.
Thôi! Bỏ qua chuyện đó đi anh.”
Hiền
dơ tay quơ mạnh vào khoảng không, ngước sang đổi giọng
trầm xuống:
“Từ
nãy đến giờ mải nói chuyện, em quên khuấy không hỏi
thăm chị cùng các cháu ở bên đấy có khỏe không anh!”
“Cảm
ơn Hiền! Nhà tôi cùng hai cháu vẫn bình thường. Bên
Mỹ thì đời sống khác hẳn với bên này. Cuộc sống
lúc nào cũng tất bật, hấp tấp.”
“Em
hiểu! Nhiều người bạn về thăm gia đình, vẫn thường
nói với em về chuyện đấy. Ráng đi anh. Bây giờ chúng
ta ai nấy cũng đều có phận riêng hết cả rồi. Em mong
anh đừng suy nghĩ gì cả! Hãy quên đi anh! Từ nay anh
đừng gửi tiền về cho em nữa! Em ở bên này cuộc sống
cũng tương đối, không đến nỗi gì eo hẹp cho lắm.
Anh cứ gửi về càng khiến cho em áy náy thêm. Ngộ nhỡ
chị biết được, thì lại gây ra nhiều điều rắc rối,
phiền phức, đồng thời tạo ra cảnh xào xáo, bất hòa
cho gia đình. Em không muốn vì em mà gia đình anh mất êm
ấm. Đừng gửi nữa, nghe anh! Chúng ta nhớ đến nhau là
đủ rồi. Hằng đêm, em vẫn không quên cầu nguyện cho
anh cùng gia đình được mọi điều an lành và tốt đẹp.”
“Cảm
ơn Hiền.”
Hai
người đi dọc theo bãi biển về chiều vắng lặng. Mưa
lất phất bắt đầu điểm hạt. Trên cao, bầu trời xám
xịt như trĩu xuống. Tiếng sóng vẫn nhịp nhàng vỗ nhẹ
vào bờ, tạo thành chuỗi thanh âm êm đềm và liên tục.
Thịnh lắng nghe chuỗi âm thanh bất tận của biển.
Chuỗi âm thanh đưa anh trôi dạt về dĩ vãng thật xa lắm.
Dĩ vãng về thời còn trai trẻ. Dĩ vãng về những năm
tháng khói lửa chiến tranh, trên mảnh đất nhuc nhằn,
cằn cỗi này. Về đời lính. Về những chuyến trực
thăng chở anh cùng đồng đội xuống các vùng đèo Nhông,
Mỹ Thọ, Vạn Ninh, An Lão, Phù Cũ. Về Đại, người đàn
ông có nước da ngăm đen. Người đàn ông ấy đã hiến
cả đời mình cho binh nghiệp. Đã có lần Đại tâm sự
với anh:
“Tôi
yêu đời lính ngay từ ngày còn ngồi ở ghế học đường.
Lớn lên, tôi chọn binh nghiệp là hướng đi chính cho
đời mình.”
Anh
mơ muốn trở thành một danh tướng, nhưng giấc mơ ấy
đã chìm theo sương khói của hư không. Anh đã ngã xuống
và máu anh đã rướm ra, thấm luồn vào mạch đất tại
vùng Lạc Sơn hẻo lánh, bởi viên đạn nghiệt ngã, lạc
lõng, vô tình. Hạnh phúc ngà ngọc chỉ đến với anh
trong vòng mười lăm ngày ngắn ngủi. Mười lăm ngày
trăng mật đi qua rồi kết thúc. Người vợ trẻ bước
lên thang phi cơ ngày hôm trước, thì hôm sau cũng là ngày
anh guc ngã, xuôi tay, giã từ khỏi đời sống này.
“Anh
đang nghĩ gì vậy!”
Thịnh
nhún vai điềm nhiên:
“Anh
đang nghĩ về Đại. Anh ấy thật bất hạnh.”
“Anh
ấy hiền. Tội nghiệp. Em chỉ ghét bà chị anh ấy. Bà
ấy bảo: Hôm đám cưới, tại em mặc chiếc áo màu vàng
xui xẻo nên em bà ấy mới mất. Ngay sau khi nhận được
tin sét đánh ngang tai, em liền vội vàng mua vé bay vào Qui
Nhơn nhận xác anh ấy đưa về đến Đà Nẵng. Bà ấy
cứ lăn lộn ra nhà, rồi rủa em là đồ sát phu. Thú
thật với anh, lúc ấy em xấu hổ vô cùng. Có đến gần
ba tuần lễ, em chẳng dám ló mặt ra đường. Suy đi nghĩ
lại cũng tại mẹ em hết. Mẹ cứ bắt em phải lấy anh
ấy. Ngày nào bà cũng tụng. Nào, nó là thằng hiền
lành, chẳng biết cờ bạc, rượu chè, trai gái hoặc hút
sách. Vậy là phúc bảy mươi đời rồi còn gì nữa!
Mày còn chờ ai nữa bây giờ! Chờ cái thằng Thịnh à!
Ai như cái thằng ấy. Mà biết chờ nó đến chừng nào!
Nó cứ im hơi, lặng tiếng, chẳng thấy đá động gì
cả! Vô lý mình phải lên tiếng trước. Thật ra, lúc
ấy em giận anh hết sức. Tức quá, em đành xuôi tay,
bằng lòng cho mẹ em vui.”
Thịnh
trầm ngâm, suy tư. Anh thò tay vào túi quần, lấy ra bao
thuốc, rút một điếu cài lên môi, rồi bằng động tác
thật khoan thai, bật hộp quẹt châm lửa:
“Hiền
cho anh xin lỗi.”
“Thôi!
Bỏ đi anh.”
Ngẫm
nghĩ giây lát. Nàng hỏi:
“Anh
còn nhớ chỗ này không anh?”
Thịnh
chau mày suy nghĩ. Cuối cùng anh lắc đầu:
“Anh
chịu.”
Hiền
chỉ tay về hướng trước mặt:
“Đấy
chính là chỗ mà bốn mươi sáu năm về trước, mình bước
lên bờ trong chuyến tàu chở mình từ Bắc vào Nam.”
Thịnh
mở to đôi mắt. Anh nhớ ra rồi. Dạo ấy phượng còn
đỏ rực trên bờ em nhỉ? Nghĩ đến chuyến tàu ấy lại
khiến cho anh liên tưởng đến những ngày nằm chờ tại
thôn xóm nghèo nàn ở Kiến An. Đến đoàn xe nhà binh chở
đầy ắp người, đậu dài trên bến cảng Hải Phòng,
chờ đợi sắp xếp xuống tàu. Rồi con tàu chở cả
tiểu đoàn công binh, mà trong đó có bố anh, bố em cùng
gia đình nằm ngổn ngang, la liệt ở trên đấy. Anh vẫn
còn nhớ mãi, đến gần sáu giờ chiều, con tàu mới nhổ
neo, giã từ Hải Phòng, âm thầm rẽ sóng ra khơi, rồi cứ
thế, lênh đênh, ròng rã suốt cả mấy ngày trời trên
biển. Mấy ngày trời ủ rũ, say sóng mệt nhừ. Tàu cặp
bến vào buổi chiều le lói, vàng úa. Tấm cửa sắt to
lớn, chắc nịch được mở ra và đoàn người ảo não,
lục tục, lếch thếch bước lên bờ, ngỡ ngàng trước
thành phố xa lạ. Lúc ấy, tự nhiên anh chạnh lòng thấy
nhớ Hà Nội. Nhớ gò Đống Đa. Nhớ từng toa tàu điện.
Nhớ đến năm cửa ô. Nhớ đến bọn thằng Thái, thằng
Lực, thằng Luyến. Nhớ đến những đêm trăng rằm vằng
vặc. Những lần tập trận giả cùng các trái sấu chua
nhăn mặt, chứa chất, tiềm tàng nhiều kỷ niệm khó
quên ở nơi đấy. Thịnh lẩm bẩm:
“Mới
đấy mà thoắt chốc đã bốn mươi mấy năm trời. Thế
mới biết đời người trôi qua nhanh thật.”
Hiền
tiếp lời anh:
Nhanh!
Chứ sao không nhanh! Anh tính thử lại xem. Ngày ấy anh
lên mười, còn em thì lên chín. Bây giờ nhìn lại thì
ai nấy cũng ngoài năm mươi hết cả rồi. Chẳng mấy
chốc…”
Hiền
bỏ lửng câu nói tại đấy. Lát sau nàng mới thỏ thẻ:
“Anh
về kỳ này có chuyện gì không anh! Nếu em nhớ không
lầm thì cách đây hơn ba năm anh có về một lần rồi.
Lần ấy Hòa có gọi điện thoại báo tin cho em hay.”
Thịnh
cất giọng buồn buồn:
“Anh
về là để lo đám tang cho bố anh.”
Hiền
trơn mắt:
“Bác
trai mất rồi hở anh? Sao chẳng thấy anh báo tin cho em
biết gì cả!”
“Tại
em ở xa quá, anh thấy không tiện.”
Hiền
trách:
“Anh
tệ thật. Thế anh Nguyện có về không anh!”
“Có!
Rất may là ba đứa con trai đều có mặt đầy đủ.”
“Chắc
đám tang bác trai lớn lắm anh nhỉ?”
“Cũng
bình thường, giản dị như mọi đám tang khác thôi Hiền
ạ.”
Bất
giác Hiền chép miệng thở dài:
“Tội
nghiệp cho bố mẹ em. Đám tang thật thảm não và lạnh
lẽo hơn bất cứ đám tang nào khác. Sau năm bảy mươi
lăm, trong hai năm liền, em phải chịu tới hai cái tang
liên tiếp. Đấy! Anh cũng biết. Gia đình em đơn thân
độc mã sống ở ngoài này, chẳng có bà con thân thuộc
nào cả. Khổ nỗi, là ngày ấy em lại chưa tục huyền
với nhà em bây giờ! Hơn nữa, trong nhà chỉ có mình em
là con gái, mà lại là đứa con độc nhất trong gia đình.
Tâm trạng em lúc bấy giờ rối bời như tơ vò, nát ra
từng mảnh vụn. Cũng may, là nhà em ở xóm ấy lâu năm
và được lòng với tất cả mọi người ở chung quanh,
nên người ta cũng thương tình! Chứ kể như mình em thì
chỉ có chết mất. Nhiều khi ngồi một mình ngẫm nghĩ
lại, em thấy thương bố mẹ em vô ngần. Lắm lúc, em
đột nhiên nảy sinh ra ý tưởng thật ngộ nghĩnh, ước
gì mình được nhỏ lại như hồi còn đi học. Chuỗi
ngày ấy chúng mình thật hồn nhiên anh nhỉ? Lớn lên,
em thấy, sao mà cuộc đời khổ quá hở anh? À! Anh còn
nhớ Hội An không anh! Hội An có ngôi chùa cầu tối om
về ban đêm. Ngôi chùa ấy mỗi khi mình đi chơi khuya về
đều bảo nhau ù té chạy. Đấy là khu phố nhỏ thứ
nhì mà mình đặt chân đến, kể từ khi bước chân xuống
con tàu giã từ quê hương miền Bắc. Cứ mỗi lần có
dịp xuống dưới đấy, em lại tạt qua ngôi trường Bồ
Đề mà anh từng ngồi ở năm lớp nhất, còn em thì gắn
bó với nó đến hai năm liền. Ngôi trường tiểu học
ấy đã gây cho em nhiều nỗi bồi hồi, xao xuyến. Anh
thi tiểu học ở trường Nam, phải không anh! Năm ấy anh
đậu. Còn năm sau, em rớt, mẹ em la cho một trận nên
thân. Em cũng không quên ghé ngang qua khu gia binh mà mình
đã sống ở đó ngót hai năm trời. Nơi ấy hầu như
thay đổi hoàn toàn. Mỗi lần trở về, em lại liên
tưởng đến các trò chơi nhẩy dây, bịt mắt bắt dê
vào các đêm tối trời oi bức. Dạo ấy mình chẳng thấy
buồn là gì anh nhỉ? Chỉ có giận hờn rồi sau đó lại
làm hòa với nhau. Anh lại hay có cái tật phá đám tụi
em. Mỗi lần như thế, em thường chạy đi mách bác trai.
Em biết, bác trai thương em lắm. Bác thường hay xoa đầu
và gọi đùa em là con dâu quí. Buồn nhất là khi đơn vị
phân tán đi mỗi người mỗi ngả. Gia đình anh thì dọn
ra ngoài Huế. Còn bố em thì thuyên chuyển về Đà Nẵng.
Tuy cách nhau ngọn đèo Hải Vân, nhưng chẳng xót năm nào
mà bác trai không ra thăm bố mẹ em vài ba lần. Hễ ra,
thì y như thể nào mẹ em cũng bày ra chắn hoặc tổ tôm.
Em còn nhớ, lần đầu tiên anh đi với bác ra nhà em. Mẹ
bắt em phải ăn mặc đàng hoàng, gọn ghẽ.
“Con
gái phải đỏm đáng đôi chút. Phải biết làm dáng.
Phải ăn nói nhỏ nhẹ, từ tốn và phải giữ ý tứ
trong khi đi đứng.”
Em
chẳng hiểu gì cả! Em chiều cho bố mẹ em hài lòng.
Thì ra có anh đi với bác trai. Tình cờ hay cố ý. Sau
này em nghe mẹ em nói, anh ra là để xem mắt. Có phải
đúng như vậy không anh?”
“Anh
chẳng biết ất giáp gì cả. Vừa về đến nhà được
hai hôm, thì bố anh dục ra thăm bố mẹ em. Bố anh bảo:
Hai bác quí con lắm và thường hay nhắc đến con luôn.
Thú thật, lần ấy anh lúng túng vô cùng. Thì ra, hai bên
đã có sự sắp xếp với nhau từ lâu lắm rồi.”
“Nhắc
đến hôm ấy thật buồn cười anh nhỉ? Sau khi hàn huyên
vài câu chuyện, mẹ dục em dẫn anh đi chơi. Lần đầu
tiên gặp lại, chúng mình chẳng biết nói gì với nhau.
Em dẫn anh đi lang thang dưới cơn mưa buốt lạnh cuối
năm. Cơn mưa ấy không bao giờ em quên! Cơn mưa ấy đối
với em lúc nào cũng đẹp và em cất giữ nó một cách
thật trang trọng trong cái ô kéo đặc biệt ở ký ức.”
“Anh
cũng vậy! Anh vẫn còn nhớ chuỗi ngày tháng vàng son,
thơ mộng đó. Chuỗi ngày tháng mà giữa anh cùng em đều
mở ra những cánh thư êm ả màu xanh, trải đầy mộng
ước ngọt lịm ở trong đấy. Không khi nào anh quên!
Không khi nào! Anh quả quyết với em là như thế.”
Thịnh
ngừng lại giây lát rồi đột nhiên hạ thấp giọng:
“Bây
giờ thì cuộc sống em thế nào?”
“Cũng
tạm đủ qua ngày, không đến nỗi gì thiếu thốn cho lắm
anh ạ.”
“Còn
chồng em! Anh ấy đối xử với em ra sao?”
“Anh
ấy đối xử với em rất chừng mực. Bốn năm sau, kể
từ khi bố mẹ em qua đời, em đành nhắm mắt, đưa chân
bước thêm bước nữa. Chúng em ăn ở với nhau có hai
mụn con và bây giờ thì các cháu cũng đều lớn khôn hết
cả rồi.”
“Mừng
cho Hiền.”
Hai
người tiến lần lên phía trên. Cơn mưa bắt đầu nặng
hạt, lớn dần. Gió lao xao trên các tàng cây, nhẹ nhàng
luồn qua cơ thể, gây liền cảm giác lành lạnh ở trong
anh. Thịnh quay sang hỏi:
“Hiền
có lạnh không?”
Nàng
gật đầu không nói. Anh kéo cao cổ áo, đề nghị:
“Hay
mình kiếm cái quán nào ngồi đi em!”
Hiền
ngập ngừng:
“Thôi!
Hiền xin phép anh về. Cảm ơn anh đã cho em một ngày
thật ấm áp, thật trọn vẹn. Tiện đây em cũng xin phân
ưu với anh cùng gia đình. Anh có định ra Huế thăm bạn
bè không anh?”
Thịnh
lắc đầu:
“Anh
không có thời gian. Bởi vì ngày mai anh còn phải về Sài
Gòn để điều chỉnh chuyến bay.”
“Anh
về, cho em gửi lời hỏi thăm sức khỏe anh Nguyện cùng
vợ chồng Hòa. Chừng nào thì anh trở lại Mỹ?”
“Tuần
tới.”
“Chúc
anh được thượng lộ bình an. Cho em hỏi thăm sức khỏe
chị cùng các cháu.”
“Cảm
ơn em.”
Lưỡng
lự giây lát, Hiền ngập ngừng:
“Gặp
anh lần này rồi không biết có còn gặp lại nữa hay
không? Hãy nhớ đến nhau nghe anh! Thôi! Chào anh, em về.”
Thịnh
bin rịn, nói khẽ:
“Anh
muốn tiễn em thêm một đoạn đường nữa!”
Hiền
nói giọng rung rung:
“Như
vậy cũng đủ rồi anh.”
Nàng
ngước lên nhìn Thịnh lần cuối, rồi xoay lưng lầm lũi
tiến vào đám đông. Chiều ủ rũ, hấp hối trên ngọn
đồi phía xa. Tự nhiên anh cảm thấy tim mình se thắt,
buồn rũ rượi.
Thịnh
bước vào quán rượu ở gần đấy. Quán vắng, thưa
người. Vài người khách lạ ngước lên nhìn anh bằng
thái độ dửng dưng, rồi lại cúi xuống tiếp tục câu
chuyện còn dang dở, đứt quãng.
Dưới
ánh sáng trong vắt của ngọn đèn nê ông, bà chủ quán
có dáng dấp mảnh khảnh, lòe loẹt trong chiếc váy đầm
diêm dúa, ưỡn ẹo, nghiêng người điểm nụ cười chào
khách. Thịnh gật đầu đáp lại. Anh gọi chai bia rồi
tiến thẳng đến chiếc bàn trống nằm khuất ở phía
trong, thản nhiên kéo ghế ngồi xuống. Thịnh thích ngồi
ở chỗ hóc tối kín đáo. Anh không thích ồn ào. Anh
thích im lặng. Âm thanh trầm buồn, lãng đãng của bản
nhạc xa xôi thời tiền chiến, đột nhiên gợi cho anh
liên tuởng đến chuỗi năm tháng u ám thuở nào. Chuỗi
năm tháng nhục nhằn, vây kín bởi bốn bức tường hạn
hẹp, tối tăm, hôi hám. Đầu óc anh lúc nào cũng bị
căng thẳng, hồi hộp trước những đôi mắt soi mói, cú
vọ của mấy tên chấp pháp độc ác, dã man ở Tri Tôn.
Cứ mỗi lần nghĩ đến, anh vẫn còn cảm thấy ghê sợ
trước những trận đòn đau điếng, ê ẩm giáng xuống
người anh từ đêm này sang đêm khác. Thú thật là anh
sợ. Sợ khi màn đêm xụp xuống. Sợ từng bước chân
người đi tới. Từng tiếng động qua khe cửa sắt.
Tiếng chìa khóa lách cách tra vào ổ. Sợ đến nỗi toàn
thân anh co rúm lại, rồi từ đó, mồ hôi cứ tuần tự
rướm ra, nhớp nháp, ướt đẫm cả thân hình tiều tụy,
gầy đét. Nghĩ đến đấy, tự nhiên anh cảm thấy rùng
mình, ớn lạnh, rồi buông nhẹ lên tiếng thở dài. Anh
ném tầm mắt nhìn qua khung cửa kính. Cơn mưa vẫn rả
rich, dai dẳng không ngớt. Xa xa, thấp thoáng vài ánh đèn
lù mù, lung linh trên đại dương. Thịnh đem ý nghĩ về
Hiền. Về thị trấn xa xôi ở quá khứ. Cái thị trấn
nhỏ bé, dễ thương nằm trong cái khoảnh vườn hồn
nhiên, ngây dại của quãng đời thơ ấu. Anh nhớ đến
những buổi sáng còn hơi sương, anh cùng Hiền đều đặn
cắp sách đến trường. Ngôi trường chỉ cách trại
lính chưa đầy hai trăm thước, mà sáng nào mẹ cũng dặn
đi dặn lại: “Nhớ dẫn em đi cho cẩn thận nghe con!”
Ngôi trường tiểu học xinh xắn ấy đã mở ra ở trong
anh cả khoang trời mượt mà, tươi tắn của kỷ niệm.
Khoang trời ấy cứ sống mãi với thời gian và chẳng khi
nào nhạt phai ở trong anh. Thịnh nhớ đến những buổi
chiều rạo rực cuối năm. Những buổi chiều mà hai đứa
đi lang thang giữa đường phố đông đúc kín người.
Những buổi chiều nồng nàn, ấm áp, lâng lâng hơn bao
giờ hết.
“Có
khi nào anh nghĩ rằng: Rồi sẽ có một ngày tình yêu
mình sẽ phai không anh?”
“Anh
tin rằng không có! Tình yêu mình lúc nào cũng đẹp. Nó
nhẹ nhàng như tơ trời và êm đềm như tiếng thông reo
mùa Hạ. Chúng ta hãy chăm bón, vun sới cho nó thành mượt
mà, xanh ngắt, tươi tốt nhiều hơn nữa.”
Người
nữ chiêu đãi đặt chai bia cùng chiếc ly thủy tinh xuống
mặt bàn. Thịnh rót vào đầy ly rồi nâng lên uống cạn.
“Anh
muốn đi với em đến điểm cuối của cuộc đời. Cuộc
đời là bể dâu, là phù vân, là khói sương, là ngã rẽ,
là sự gẫy đổ ê chề, nhức nhối, phải không em?
Chúng mình chẳng khác nào như hai con tàu chạy ngược
chiều, trôi dạt về các ga trạm xa lạ, buồn tênh. Mùa
xuân chẳng khi nào về với chúng ta! Nhưng chúng ta vẫn
phải gắng gượng để sống, cho những đứa con anh, con
em, có hơi thở, có mạch sống để vươn lên, rồi nở
hoa đi vào cuộc đời. Hãy cố gắng đi cho hết chặng
đường đời đầy phiền toái, nhàm chán này. Hãy gắng
lên nghe em!”
Thịnh
vẫy tay, gọi thêm bia. Anh muốn uống cho say khướt.
Uống để vơi đi được phần nào nỗi xót xa, dằn vặt
đang bủa vây kín mít ở trong anh hiện giờ. Thịnh dốc
ngược chai bia rồi ngửa cổ nốc ừng ực. Hơi men luồn
vào cơ thể gây liền cảm giác ngầy ngật, khó chịu.
Lãng đãng, mơ hồ anh nghe như có tiếng hát Sĩ Phú phát
ra từ chiếc máy thâu thanh nào đó.
“Yêu
ai! Yêu cả một đời. Tình đó quá khắt khe khiến cho
đời ta, đau tủi cả lòng. Tình yêu kia mà người hằng
nhớ. Năm tháng trôi lạnh lùng hoài.” Ngán ngẫm, anh
mệt mỏi, nhướng cặp mắt lờ đờ nhìn bâng quơ lên
trần nhà.
Bên
ngoài, đêm thì thầm, mưa bay./.
TRANG
LUÂN