Hoàng
Anh Tuấn là một nhà thơ nổi tiếng từ thập niên 60.
Nói đến nhà thơ này, là phác họa lại một chân dung
văn nghệ sĩ của văn học Việt nam rất độc đáo và
nhiều cá tính. Trong thi ca của ông, ngôn ngữ thơ đã làm
sống lại những thời kỳ của kỷ niệm không phải
riêng của ông mà còn của rất nhiều người trong chúng
ta. Những nơi chốn, của không gian những thời gian nào
xa xưa được nhắc đến như một phần cuộc đời của
thi sĩ và trở thành những hằn dấu trong tâm thức chẳng
thể nào phai. Nói đến Hoàng Anh Tuấn, là phải đề cập
đến con người đa năng đa diện và tràn đầy nghệ sĩ
tính. Và, thơ của ông cùng với cuộc đời ông cũng
trôi nổi theo từng thời kỳ của đất nước và cũng
cùng chung những tâm tư của một thời đại rất đặc
biệt Việt Nam.
Chân
dung nghệ sĩ Hoàng Anh Tuấn là một chân dung đa diện. Có
nhiều vóc dáng Hoàng Anh Tuấn. Nhà đạo diễn phim ảnh.
Kịch tác gia. Ký giả. Công chức Quản Đốc Đài Phát
Thanh Đà Lạt. Nhưng đặc biệt nhất vẫn là vóc dáng
của một thi sĩ. Và một người thi sĩ đặc biệt, đã
sáng tác hàng mấy trăm bài thơ nhưng vào lúc cuối đời
lại mới in tập thơ đầu tiên do ái nữ là nhà văn
Hoàng Thu Thuyền góp nhặt sưu tầm các bài thơ đăng rải
rác trên báo chí. Hình như ông coi công việc làm thơ như
một trò chơi, viết xong là quên đi ngay không để ý tới
nữa. Hoàng Anh Tuấn là đạo diễn phim ảnh. Ông tốt
nghiệp trường điện ảnh khá nổi tiếng của Pháp ở
Paris IDHEC nơi mà các đạo diễn nổi tiếng của Việt
nam như Lê Mộng Hoàng, Lê Hoàng Hoa đã cùng học. Khi về
Sài Gòn ông làm việc cho hãng phim Alpha của đạo diễn
Thái Thúc Nha và sau này đã làm đạo diễn cho hai phim Xa
Lộ Không Đèn và Ngàn Năm Mây Bay. Phim Ngàn Năm Mây Bay
có cốt truyện từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn
Văn Quang.
Chân
dung khác cũng khá lạ: Hoàng Anh Tuấn kịch tác gia. Ông
là tác giả của nhiều kịch bản khá nổi tiếng và được
trình diễn nhiều lần. Trong số đó có vở “Hà nội
48”, hay “Ly nước lọc“. Ông có lối dựng vở
khá độc đáo ảnh hưởng của lối viết thoại kịch
Tây phương.
Hoàng
Anh Tuấn còn là một ký giả. Vì nghề đạo diễn không
đủ sống nên ông quay qua viết báo. Ông được các ký
giả đàn anh như Huỳnh Thành Vị, Phi Vân kềm cặp
và truyền nghề để trở thành một ký giả có thể làm
được bất cứ một công việc lớn nhỏ nào ở tòa soạn
nhật báo. Trước năm 1975 ông đã làm việc tại các nhật
báo Đồng Nai, Tiền Tuyến, và tạp chí Hiện Đại.
Hoàng
Anh Tuấn quản đốc đài phát thanh lại là một sắc diện
khác.
Theo
lời nhiều người cùng thời, thì ông là một công chức
ăn bận lè phè nhất dù là quản đốc đài phát thanh Đà
Lạt. Ông đi làm mà đi guốc, mặc áo bỏ ngoài quần, bộ
dạng rất luộm thuộm. Nhưng ông làm việc có nhiều sáng
kiến, có lần khi truyện chưởng Kim Dung được nhiều
người mến mộ đã cho làm những chương trình đọc
truyện truyền thanh, một sáng kiến mà các cấp chỉ huy
không thích.
Sống
ở hải ngoại, khi ở thủ đô Washington DC hoặc thành phố
San José, ông cũng sinh sống bằng nghề làm báo…
Ông
làm thơ từ thời rất trẻ khi du học bên Pháp. Ông làm
rất nhiều thơ khi học ở Paris và là người đã in tập
thơ “Về Provins” cùng với các tập thơ của những bạn
cùng thời như Nguyên Sa với tập thơ “Hy Vọng” và Đỗ
Long Vân với tập “Người Em Sáng Trong Cô Độc”. Những
tập thơ in roneo vào năm 1952 và về sau này những bài
trong tập Hy Vọng của Nguyên Sa được in lại trong Thơ
Nguyên Sa. Còn hai tập thơ của Hoàng Anh Tuấn và Đỗ
Long Vân thì lại không được phổ biến ở quê hương dù
hai tác giả kể trên về sau đã thành những tên tuổi
thi sĩ lớn hay ký giả nổi danh của hai mươi năm văn học
Miền Nam.
Về
Provins là một tập thơ của thi sĩ viết cho một người
em gái “tóc vàng sợi nhỏ“ tên là Irène với khung cảnh
của xứ người, của tâm tình những người tuổi trẻ
yêu nhau. Những câu thơ tự do tự nó đã có chất phóng
khoáng của sự phá bỏ mọi câu thúc, kể cả sự phân
biệt màu da và khác biệt văn hóa. Thơ như phác họa cho
một lên đường sắp tới…
Phong
cách sống thoải mái phóng túng như vậy nên thơ tình ông
tuyệt vời. Hoàng Anh Tuấn có những bài thơ thật độc
đáo, nhất là thơ tình yêu. Mà lạ lùng, những bài thơ
ấy ông làm rồi quên ngay đi. Với ông tất cả chỉ là
một trò chơi, không có gì quan trọng, kể cả đời sống
của chính mình. Có một bài thơ, kể một chuyện tình,
của ai ai mà sao nghe như giông giống chuyện của mình...
Thơ
kể có một cậu bé học trò yêu một tình yêu khó ngỏ.
Mỗi buổi chiều tan học, đạp xe theo một tà áo trắng,
lòng muốn nói bằng ngôn ngữ trái tim mà chẳng thể mở
lời. Suốt một năm học, chỉ là người chỉ dám theo
sau với cái ngại ngùng nhút nhát của tuổi vừa chớm
biết mơ mộng. Rồi thời gian qua, cậu bé ấy thành người
lớn, vào lính và trôi nổi theo dòng đời của một xứ
sở chiến tranh. Cho đến một hôm, gặp lại người xưa
đã là thần tượng một thời niên thiếu. Người ấy,
gặp lại trong một quán rượu, trong cái phong cách của
một người đàn bà đã trải qua nhiều bầm dập của
cuộc sống. Người đẹp ngày xưa, của áo trắng nữ
sinh thuần khiết ngày nào, bây giờ, chỉ là tiếng cười
man dại, chỉ là mầu môi đỏ rực của những câu cháy
đỏ dục tình. ...
Đó, là
câu chuyện của bài thơ “Gìn Giữ“ của Hoàng Anh Tuấn,
nhưng, trong một trùng hợp nào đó, lại là chuyện tình
của cá nhân tôi. Bài thơ ấy, không hiểu tại sao lại
như in trong tâm thức tôi hàng mấy chục năm. Tôi đã
nhớ, đã thuộc hầu như trọn cả bài, chỉ có mấy câu
cuối là để sót.
Đáng
lẽ đó phải là một bài thơ đắc ý của ông mới phải.
Thế mà tác gỉa bỏ quên đi thì lạ thật? Bài thơ ấy,
tôi đọc lại cho nhà văn Thu Thuyền, con gái nhà thơ
Hoàng Anh Tuấn và cô đã hỏi lại ông, thì ông trả lời.
Thơ có vẻ hơi giống giống, quen quen nhưng thú thực là
đã quên rồi vì làm rất nhiều bài thơ nhưng như cơn
gió, thoảng qua đi rồi thôi. Nếu ai có thích thì nhớ.
Đó là chuyện của độc giả. ...
Tôi
khoái cái phong thái đó, và lại càng thích hơn bài thơ
xưa. Cái tâm tư ấy, dường như là của tôi. Cái ngôn
ngữ ấy, sao giống tôi qúa thế... Hoàng Anh Tuấn đã
viết giùm, đã nói giùm, đã hoài niệm giùm. Có thể,
bài thơ ấy với người khác, họ không thích, không cho
là hay. Nhưng với tôi, phải vỗ đùi vỗ vế mà bắt
chước Kim Thánh Thán ngày xưa mà kêu ầm lên “Chẳng
khoái hơn sao?”.
Bài
thơ ấy với tôi, khi ấy, là tuyệt tác, bài “Gìn Giữ”,
tôi đọc lần đầu tiên vào một buổi tối ở phòng
trực trong phi trường Biên Hòa khi cường độ chiến
tranh khốc liệt và những trái đạn pháo kích cứ chực
chờ mỗi ngày, mỗi đêm… Bài thơ dù chỉ là một
chuyện tình nhưng hình như cũng nhuốm nhiều hơi hám của
chiến tranh.
Bài
thơ khá dài. Nhưng có thể đọc làm hai phần. Phần đầu
của cậu học trò ngây thơ si tình, yêu mà nhút nhát:
“Anh
thầm nhủ đợi cuối tuần sẽ nói
cuối
tuần này anh hẹn cuối tuần sau
nhưng
gặp em anh ngần ngại lắc đầu
để
khi khác hôm nay còn sớm quá
yêu
mãi mãi can chi mà vội vã
em
còn đây tóc lả nhánh ngang vai
em
còn đây mười sáu tuổi thơ ngây
đường
đi học hôm nào không gặp gỡ
nhưng
nín lặng anh về nhà khổ sở
gọi
tên em mà nhớ vẫn y nguyên
anh
bảo rằng sẽ phải làm quen
dù
khó nói hơn một lần xưng tội.
Đường
đi học chung con đường mấy buổi
Bữa
đi thi là lần cuối gặp nhau
Anh
là người chỉ dám theo sau
Theo
kín đáo để em đừng ngó lại
Tuổi
học trò tình yêu khờ dại
đem
thiên đường hoa lá kết trăng sao…”
Còn
phần thứ hai thì lẽ ra phải là một mối tình đẹp với
lời kết happy ending? Nhưng, không, là một chuyện tình
buồn và thê thảm và đau xót :
“Mười
năm rồi anh vẫn ước ao
được
tiến ngang vai nhìn nghiêng mái tóc
và
bảo rằng mãi mãi yêu em
khói
thuốc dần tan trơ trẽn ánh đèn
em
trước mặt mưa ngoài kia xối xả
em
nằm nghiêng đẹp vô cùng lơi lả
tóc
chán chường ôm xõa nửa cơn điên
em
vội vàng cất tiếng cười lên
cho
đau đớn ở lưng chừng kiêu hãnh
tay
mơn trớn nhả một loài rắn lạnh
khắp
mình anh nghe rợn mảnh chai đâm
anh
xiết vai em nức nở âm thầm
gọi
bóng tối để tìm ngây thơ cũ.
Trời
còn mưa khi anh bỏ ra về
đi
rất khẽ để em đừng tỉnh giấc... ”
Tâm
cảm của tôi thế nào khi đọc những câu thơ sống thực
như thế?
Bài
thơ ấy tác giả đã quên nhưng tôi lại nhớ. Chuyện của
tôi có thực mà sao nghe như tiểu thuyết. Cái đau đớn
của một cậu học trò ngây thơ si tình đã nguôi ngoai,
nhưng vẫn còn niềm đau xót của một người ngậm ngùi
trong cái thay đổi của một thời bão lửa chiến tranh.
Tôi vẫn còn nghe cái cười cay đắng của Em, khi nói về
thân phận nàng Kiều của mình: ”Em chỉ có hai bà cháu.
Bà em thì già, em biết làm gì hơn trong cái thời buổi
này!”. ... thành ra những câu thơ như “em vội vàng cất
tiếng cười lên, cho đau đớn ở lưng chừng kiêu hãnh...
” như những mũi dao. Lách sâu vào tim, vào da vào thịt.
Đọc
những câu thơ trên tôi nhớ nhiều đến những kỷ niệm
thời mới lớn của mình. Có nhiều người thích những
câu thơ viết về thuở mới lớn, của tình yêu đầu đời
của Hoàng Anh Tuấn. Với tôi, bài thơ ấy nhắc lại một
thời, của những khi mà mơ mộng như cánh diều bay vút
lên tận trời xanh. Buổi chiều, đạp xe đi theo tà áo
trắng, khi gió từ con kinh thổi lên, khi dốc cầu cao vút,
như những tầm mắt như muốn lạc vào chốn nào xa mờ.
Để đến buổi tối, thức khuya, tập tành làm thơ, để
thấy mình lắng nghe trong sâu thẳm những ấp ủ một
thời, những lãng mạn một đời. Cậu học trò nghèo mơ
ước nhiều thứ, mà có khi chỉ là những mơ ước lãng
đãng không cụ thể. Đôi khi là giấc mộng trở thành
quan trạng ngày xưa trong thi ca Nguyễn Bính. . Ôi, những
giấc mơ thời tuổi trẻ. Bây giờ ở tuổi trên sáu mươi
sao vẫn nghe xôn xao một chút gì vương vấn lại….
Đó
là một bài thơ mà thi sĩ đã làm ở thành phố Sài Gòn.
Với ông, Hà Nội có vị trí của một thánh địa. Tập
thơ độc nhất được in lúc gần cuối đời của ông
manh tên ”Yêu Em Hà Nội”. Dĩ nhiện, tôi phải đọc kỹ
tập thơ được xuất bản duy nhất này. Nhưng, nói về
bài thơ Gìn Giữ là đề cập đến cái nét nghệ sĩ tính
độc đáo của ông. Bởi, trong cái phong cách nghệ
sĩ, không coi một điều gì là quan trọng, thì nhớ hay
quên một vài bài thơ, vài chục bài thơ hay vài trăm bài
thơ cũng thế thôi. Với ông, thơ chỉ là một cuộc
vui, tình cờ ghé vào, rồi tình cờ bỏ đi... Thơ là
cuộc sống, là tình yêu, là những nhân dáng những tượng
hình có thực nhưng, như cuộc đời này, như mây trời,
sẽ bay đi, mất biệt…
Người
ta nói thơ của ông trẻ trung ngàn tuổi bởi phong cách
ấy, tâm tình ấy. Dù bây giờ ông đã khuất núi khởi
hành vào cõi miên viễn vô biên…
Tôi
không phải đồng trang lứa với ông và trong đời chỉ
gặp mặt nói chuyện một vài lần, mà sao nghe tin ông
mất, lòng cũng không khỏi man mác. Nhưng, vẫn thấy dường
như thi sĩ còn để lại điều gì. Giở tập thơ, đọc
lại vài bài thơ quen, những bài thơ của những không
gian, thời gian thật trẻ dù có khi mà cả thi sĩ và độc
giả đã già... Có người gọi ông là Lão Ngoan Đồng
cũng có cái lý của nó.
Thơ
Hoàng Anh Tuấn trẻ, rất trẻ. Nếu không ngại ngoa ngôn,
thơ ông không tuổi tác. Lúc nào, thơ cũng là những niềm
riêng trải ra, từ cảnh đến người. Thơ, có hơi
thở của cuộc sống, bởi, nó có sự sống thật
rốt ráo, thật tha thiết. Những ý tưởng, những cảm
nhận, là thật của ông, và cái riêng ấy qua ngôn ngữ
đã thành cái chung của nhiều người.
Có
người hỏi tình yêu của Hoàng Anh Tuấn khi tuổi trẻ
hoặc lúc về già có gì khác biệt. Theo tôi thì cũng thế
thôi. Một nòi tình. Tuổi trẻ khi đã yêu, ai mà không
nhút nhát, không mơ mộng. Ai mà chẳng có lúc “mộng
ngoài cửa lớp”? Ai mà chẳng có lúc nhớ về Em của:
“Em
xõa tóc bước lên ngôi thần tượng.
Đôi
bàn chân còn lấp lánh sương đêm
Môi
ướp mật ong, tóc đẫm hương rừng
Tà
áo mỏng dệt bằng tơ dị thảo...”
Nhưng
khi lớn tuổi, thì cũng thế. Người đọc thấy người
thơ sao giông giống chính ý nghĩ mình. Từ ý tưởng, từ
ngữ ngôn, là những dong tay dắt về nơi chốn tuy ngủ
trong trí nhớ nhưng chưa yên trong hồi tưởng. Thơ đi về
ngõ đường nào, có cơn mưa ấu thời, có rung động
thanh xuân. Dù, Hoàng Anh Tuấn làm thơ cho Hà Nội,
nhưng ai cấm độc giả tưởng tượng lại cho thành phố
của mình. Như với tôi là Sài Gòn, là thánh địa của
tuồi hoa niên, là cơn nắng chiều vàng hoe hiu hắt, là
con lộ ven bờ kinh dẫn đến dốc cầu cao, là tà áo dài
trắng phất phơ đầy mộng tưởng.
Thơ
tuyệt vời như thế chắc được nhiều nhạc sĩ ngắm
nghía để phổ nhạc? Đúng như vậy, Thơ Hoàng Anh Tuấn
được rất nhiều nhạc sĩ chọn. Và có rất nhiều nhạc
khúc bắt nguồn từ thơ ông. Như Hoài Khúc của nhạc sĩ
Anh Việt. Như Soi Trong Lòng Mắt - Duyên Anh. Như Ngàn Năm
Mây Bay - Nguyễn Hiền. Như Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội - Phạm
Đình Chương. Như Viết Trên Tà Áo Em - Văn Phụng. Như
Hát Tháng Tư Xanh - Phạm Duy. Như Gọi Người Yêu Dấu -
Vũ Đức Nghiêm. Như Thầm Kín Song Ngọc. Như Em, Hà
Nội - Phan Nguyên Anh. Như Giọng Hát Năm Xưa - Nguyễn Đức
Nam. Như Mùa Hạ Huyền - Khổng Vĩnh Thành…
Trong
lời tiễn đưa khi hạ huyệt thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, nhà
văn Giao Chỉ phát biểu: ”trong số các bài thơ của
Hoàng Anh Tuấn có hai bài phổ nhạc rất danh tiếng. Bài
Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội đã làm khổ thi sĩ khi kẹt lại
bị hành lên hành xuống trong tù Cộng sản. Tuy nhiên Bài
Thơ Hà Nội chan chứa tình yêu với tên các con đường
36 phố phường thì cả cán bộ Bắc Kỳ đọc cũng phải
ngẩn ngơ
”Em
Hà Nội, Hàng Đường trong giọng nói
Để
Hàng Bông êm ái lót cơn mơ
Thương
những chiều Bác Cổ ngày xưa
Anh
nắn nót một trường thi lãng mạn
Thơ
thuở bé khắc ghi tình Ngõ Trạm
Hàng
Cỏ ơi sao thảo cỏ mờ phai
Theo
gót chân em từng bước Hàng Hài
yêu
Hàng Lược chải mềm hương mái tóc…”
Tình
Hà Nội đến như thế thì thôi!!!”
Thơ
tình Hà Nội không phải chỉ có thế. Tôi đọc “Bài
Thơ Còn Lại”, để thấy như còn chút vấn vương, còn
một nỗi niềm nào mơ hồ chưa ngỏ. Lời và ý thật tự
nhiên, xuôi chảy theo dòng ngôn ngữ không một chút dụng
công nhưng lại gây rung động. Trong cách diễn tả, có sự
thiết tha của những lời dặn dò...
Không
phải thi sĩ chỉ muốn dặn dò với người yêu, mà, còn
muốn dặn dò với cả chính mình, hay cả vời vợi tâm
tư của một tâm thức nào đã in sâu trong trí nhớ. Lời
dặn tha thiết :
“Có
đi ngang xin em đừng đánh phấn
tóc
buông rèm lứa tuổi thích ô mai
mắt
vương tơ của những phút học bài
tay
kheo khéo khi đánh chuyền với bạn... ”
Thốt
nhiên, tôi lại nhớ đến câu thơ Nguyễn Bính, của cái
xót xa khi thấy người yêu thay đổi “hôm qua em đi tỉnh
về. Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều,,” như lời
dặn dò đừng mặc áo quần theo mốt thành thị nhắc lại
một thời xa xưa. Còn Hoàng Anh Tuấn thì nài nỉ. Hãy hồn
nhiên, hãy ngây thơ, như thuở nào mới lớn. Đừng trang
điểm, bởi son phấn sẽ làm thô nhám đi lớp da mượt
mà, sẽ làm bớt đi cái hồn nhiên của những bình minh
vừa rạng…
Tâm
tư ấy, với tuổi học trò, ai mà quên được. Có lời
ngỏ từ câu thơ phất phơ tà lụa. Hay là nỗi niềm thổn
thức buổi chia xa. Thơ được hình tượng riêng từ hoa
lá cỏ cây đến trời mây sông biển. Dòng thơ xuôi
nguồn, những câu tám chữ phăng phăng rạch về biển
lớn. Câu, chữ, là lóng lánh sương trong của một ngày
tinh mơ, là ánh hoàng hôn của một chiều quá vãng. Thơ,
mềm mại và nõn nhẹ như tơ :
“Bước
rất nhẹ như mùa Thu con gái
như
bàn tay khẽ hái tiếng đàn tranh
như
chưa lần nào em nói : yêu anh
như
mãi mãi anh còn nguyên thương nhớ
bước
nhè nhẹ như bóp mềm hơi thở
như
ngập ngừng chưa nỡ xé chiêm bao
em
có về ăn cưới những vì sao
để
chân bước trên giòng sông loáng bạc
ở
một chỗ tưởng chừng như đi lạc... ”
Những
câu thơ mở ra một tấm lòng rất rộng, đầy trăng sao
mơ mộng. Nhưng tuyệt cú là những câu cuối của bài
thơ. Những câu thơ mà nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình
Toàn tâm đắc… Những câu cuối là những câu thơ của
nỗi niềm hoài niệm, của những dặn dò cho thân ái ngày
xa xưa:
“…Em
nguyên vẹn là bài thơ bé nhỏ
anh
còn nguyên là một kẻ yêu em
Em
đi ngang xin ráng bước cho êm
Đừng
đánh thức thời gian đang ngủ kỹ
Đừng
đẹp quá để anh đừng rối chỉ
Lấy
gì đây khâu vá lại tình xưa?
Có
đi ngang xin chọn lúc bất ngờ
đừng
nói trước để anh buồn vơ vẩn... ”
Thơ
tám chữ của Hoàng Anh Tuấn như bài này quá hay. Nhưng có
nhiều người lại cho rằng thơ của ông tuyệt vời ở
thể loại khác? Thật ra cũng cũng tùy cảm thức và nhận
định của mỗi người. Nhiều người thích thơ lục bát
Hoàng Anh Tuấn vì ý thơ cô đọng và ngôn ngữ tinh chất.
Nhưng, riêng với tôi, lại thích thơ tám chữ của ông
hơn. Nghiệm lại, thường đa số bài của ông là tám
chữ. Và, với thể loại này, dường như không gian
thơ rộng hơn và thời gian thơ cũng dài hơn. Ở đó, trí
tưởng tượng như vó chân tuấn mã xoải bước theo muôn
dặm hành trình. Nhịp thơ dồn dập nối nhau, như nhịp
thở trái tim, để, ý và lời kéo nhau vào vô biên
vô tận. Để đến một lúc, từ những làn sóng liên
miên kéo tới, để người đọc thấy như bị hụt hơi
trong cảm giác và thấy bị trôi dạt vào một cảnh tượng
riêng khi ngũ quan bị rơi vào khoảng chơi vơi vô định
của liên tưởng. Ông không kể chuyện nhưng từ một vài
câu, một vài chữ như kể đến, hay nói về, chút tâm sự
riêng mà người đọc thơ tự cảm thấy mình có một
chút nào chia sẻ trong đó. Trong ý nghĩ chủ quan tôi,
chính vì những hình ảnh, những từ ngữ bất chợt ấy
mà ấn tượng thơ như hằn vết sâu thêm, rõ thêm
trong bộ nhớ của óc não độc giả. Thơ vì thế lại có
dáng vẻ lôi cuốn thêm…
Thơ
Hoàng Anh Tuấn làm hồi sinh lại những nơi chốn mà ông
đã sống qua. Liệu nhận định ấy có gì quá đáng
không? Nhưng theo tôi thì câu nói đó nêu lên được một
đặc tính của con người ông và thi ca ông. Thơ huyền ảo
hơn Paris của một thời tưởng tượng. Thơ dựng lại
một phương trời Hà Nội. Thơ làm rạng rỡ hơn cái nắng
Sài Gòn. Thơ làm lãng mạn hơn sương mù Đà lạt. Và ở
xứ người thơ chuyên chở tâm tình của Thung Lũng Hoa
Vàng, của thành phố San Jose nơi thi sĩ sống cuối đời
và từ trần ở đó... Những nơi chốn của đất thánh
thi ca…
Nguyễn
Mạnh Trinh