CAO MỴ NHÂN * trăng tan trên sông núi
Hình
ảnh trăng treo đầu súng quả là đẹp đến không thể
tả được, nếu quý vị không là lính biên phòng. Phải
có thời gian đi hành quân ở núi rừng, đóng chốt tại
những tiền đồn biên giới, mà thuở xa xưa, thời vua
chúa phong kiến, những người lính được cử, hay bị
đày đi “trấn thủ lưu đồn” mới cảm khái nỗi lòng
chan chứa: vừa nhớ thương gia đình ở hậu phuơng, vừa
lo chuẩn bị chiến đấu, kích giặc bất ngờ, và vừa
rung động trước thiên nhiên cẩm tú bao la khi bình minh
ló rạng, lúc hoàng hôn tắt nắng, và nhất là ánh trăng
đang tan trên sông núi, tưởng như vầng trăng “ai” treo
trên đầu súng, ỡm ờ, lãng mạn đến tuyệt vời.
“Trăng
Treo Đầu Súng”, vâng chính là tên một tập thơ đã đi
sâu, đi sát vào tâm hồn chiến binh Việt Nam Cộng Hòa từ
đầu thập niên 60 thế kỷ trước, tác giả là nhà thơ
Tường Linh, phục vụ tại Cục Tâm Lý Chiến Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, chẳng cần nhờ ai đánh bóng, đã tự
xếp chỗ ngồi cho mình nơi một chiếu thơ rực rỡ, chan
hòa chất lính.
Hôm
nay, tôi xin mạn phép quý vị huynh đệ chi binh QLVNCH, và
độc giả đã từng đọc thơ Tường Linh trước
30-4-1975, giới thiệu về hiện tượng Tường Linh trên
hành trình thơ của ông, khi tôi vô tình được bạn thơ
gởi đến cùng với số thơ khác, của các tác giả khác,
2 bài hành gần như xướng họa của thi sĩ Tường Linh,
hiện còn tự lưu lạc trên quê hương, và nhà thơ trẻ
thường sáng tác thơ Đường luật, hiện tị nạn ở
miền Đông Bắc Hoa Kỳ theo diện HO., đến Mỹ theo diện
sĩ quan đi tù cải tạo về, được chính phủ Hoa Kỳ
cho… tái định cư ở xứ sở USA tự do.
Tại
sao tôi phải dài dòng giới thiệu về 2 tác giả của 2
bài hành đan cử sau đây, lý do mà rất nhiều quý vị
trong và ngoài quân đội VNCH đều hơn một lần biết
rằng vào khoảng mấy năm đầu thập niên 70 thế kỷ
trước, sau hai cuộc hành quân lớn cấp lộ quân, tức là
rất hiện đại, của VNCH, là Hành Quân Lam Sơn 719 vào
mùa Xuân 1971 ở đường 9 VN qua Nam Lào, và Mùa Hè
Đỏ Lửa 1972, tái chiếm cổ thành Quảng Trị, thì cơ
quan tình báo từ Cục An Ninh Quân Đội và Tổng Cục
Chiến Tranh Chính Trị phát giác ra một toán Trí Vận, mà
hai nhân vật văn nghệ sĩ quân đội khá tên tuổi là
Thượng Sĩ Lưu Nghi (đã xuất bản 2 tập tiểu thuyết)
và nhà thơ Trung Sĩ Tường Linh, tác giả tập thơ “Trăng
Treo Đầu Súng” đương nêu, dẫn đầu danh sách toán Trí
Vận, để hỗ trợ cho “Phong Trào Hòa Bình Dân Tộc”,
lung lạc các văn nghệ sĩ và trí thức miền Nam, mở
đường cho… “hòa bình hậu chiến”. Khi toán Trí Vận
bị phát giác, tất nhiên tiếp theo là công việc của Cục
An Ninh Quân Đội QLVNCH, không phải vấn đề thi ca thuần
túy hôm nay tôi sắp đề cập tới.
Số
là sau ngày 30-4-1975, hai nhân viên thuộc Cục Tâm Lý Chiến
có được chính quyền “mới” đãi ngộ không, lại
cũng không thuộc chuyện kể của tôi. Nhưng dường như
sau một thời gian ví như nhuốm mùi gian khổ của cái gọi
là Xã Hội Chủ Nghĩa, thì riêng nhà thơ Tâm Lý Chiến
VNCH xưa đã quá ngán ngẩm, ông làm một bài thơ thổ lộ
nỗi lòng: “Một Vầng Trăng Khác”. Những ngày tôi
chưa qua Mỹ, tôi được nhà thơ Hoàng Vũ, thuộc giới
thơ Đường luật cho đọc, tôi bèn … chia xẻ nỗi buồn
khó nói của thi sĩ Tường Linh, mới viết bài có câu:
Một vầng trăng khác, nghĩa
là sao
Trăng đỏ hay chưa đủ sắc
đào
(Cao
Mỵ Nhân)
Ý
nói hoàn cảnh ông lúc đó như vầng trăng “chưa đủ
sắc đào”, vì ông vốn người miền Nam.
Đã
tàm tạm việc giới thiệu sơ sài về thi sĩ Tường Linh
trong cái bối cảnh lịch sử quanh mốc 30-4-1975. Nay trở
lại chuyện 2 bài hành:
“Hành
Tuổi Sáu Mươi” của Tường Linh
và
“Bài Mừng Tuổi Muộn” của Nguyễn Kinh Bắc.
Vượt
cuộc nhân sinh quá nửa đường
Sáu
mươi năm chẵn, góc chiều thương
Rượu
bầy ước lệ mời thơ lại
Gia
Định giờ thêm ý cố hương
(Tường Linh)
Sau
mấy năm theo… giải phóng (!), chẳng có gì hơn ngoài Thơ
với Rượu, và nơi ở Gia Định giờ ẩn ức nghĩa “cố
hương”. Tất nhiên rồi, vì Gia Định xưa đã trở thành
quận Bình Thạnh nay, mà căn nhà ông đã và đang cư ngụ
cùng vợ con, là một ngôi nhà lai kiểu biệt thự, ở đầu
đường Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh.
Nguyễn
Kinh Bắc họa… hành như vầy:
“Một
mai dù gục ở bên đường”
Thơ
viết ngày nào gợi mến thương
Mấy
chục năm vèo trong chớp mắt
Người
còn phiêu bạt giữa quê hương
(Nguyễn Kinh Bắc)
Ngay
câu mở đầu, kinh Bắc đã dùng ý của chính nhà thơ
Tường Linh xưa, trong tập thơ “Trăng Treo Đầu Súng”
thuở Việt Nam Cộng Hòa:
Một
mai dù gục bên đường
Đời
sau sẽ rước nắm xương khải hoàn
(Tường Linh)
Vui
vẻ chi, ngày mừng hoa giáp (tuổi 60), Tường Linh ví như
ngựa khớp cương, mặc dầu nhà thơ Tường Linh chỉ làm
việc ở Cục Tâm Lý Chiến, chẳng hề đi tác chiến, mà
cũng cảm khái tinh thần chiến sĩ rong ruổi ngựa hồng,
hay xích thố, lỡ thất trận thì da ngựa bọc thây:
Vui
vẻ chi ngày ngựa khớp cương
Nhập
thế chi đau cùng cõi thế…
(Tường Linh)
Chiến
mã bên trời lạc mất cương
Nay
lắng hồn thơ trong phẫn hận…
(Nguyễn Kinh Bắc)
Với
60 câu thơ 7 chữ, đủ tạo nên một bài hành vừa phải
để diễn tả tâm sự mình, nhà thơ Tường Linh chắc
cũng thấp thoáng tư tưởng hoài Lê, vọng Nguyễn. Như cụ
Tố Như xưa thì nhất định là hoài Lê (triều Lê) mới
dựng nên một Từ Hải được chiêu dụ trở về phò
Nguyễn (triều Nguyễn) để rồi “hàng thần lơ láo,
phận mình ra đâu”. Còn Tường Linh buổi đầu muốn phò
Nguyễn, nên mới thực hiện công tác Trí Vận, nay thì vỡ
lẽ ra, biết ngỏ cùng ai mối tơ vò chín khúc, buồn ơi:
Hồ
trường ai nỡ chiêu bằng hữu
Ai
nỡ chia sầu đến mấy phương…
(Tường Linh)
Vâng
là thế, nhưng Nguyễn Kinh Bắc, thế hệ sau nhà thơ Tường
Linh, ông sĩ quan cấp úy này vô lính vì lý tưởng Quốc
Gia, nên khẳng định ngay:
Canh
trường độc ẩm riêng ai nhỉ
Bằng
hữu chia lìa khắp bốn phương…
(Nguyễn Kinh Bắc)
Bởi
vì sau cuộc đổi đời 30-4-1975, quân đội miền Nam đã
bị bức tử, tan hàng, nên chi mỗi huynh đệ chi binh lạc
lõng một nơi, thành ai sầu hận cũng đành… độc ẩm
thôi. Và, thái độ chống đối đẹp nhất, theo tôi, vẫn
là thơ.
Nhà
thơ Tường Linh thuở làm thơ phong độ nhất hay nói một
cách khác, thuở làm thơ trẻ trung là người viết khiêm
tốn nhất, hòa hoãn nhất, dù hình ảnh “trăng treo đầu
súng” thật lãng mạn, trữ tình, khác với những người
lính anh hùng bạt mạng, nên bây giờ ông càng thu mình
vào cõi riêng, nhất là các bạn cùng thời Trí Vận đã
lần lượt… vỡ mộng hòa bình, riêng nhà văn Lưu Nghi
sau này qua đời vì già, bịnh, còn tất cả đã thất
tung, thất tán. Thi sĩ Tường Linh đành thúc thủ tuổi
lão niên một cách vô thường:
Lặng
lẽ một đời, thêm lặng lẽ
Không
cần nhìn lại bóng trong gương
Cũng
thừa biết tóc tiêu pha muối
Mắt
vẫn đăm chiêu nỗi thế thường…
(Tường Linh)
Nguyễn
Kinh Bắc chạnh nhớ thời dĩ vãng xa xưa, nhà thơ Tường
Linh tặng thân phụ Kinh Bắc tập thơ “Trăng Treo Đầu
Súng”, lúc Kinh Bắc mới 12 tuổi, cũng là tập thơ đầu
tiên Kinh Bắc được đọc, nên dù hậu sinh, nay thi sĩ
Tường Linh đã ở tuổi lão bá (82 tuổi), và Kinh Bắc đã
vòng quanh hoa giáp, nên cậu ta chép miệng, viết:
Tâm
sự gửi đâu, này giấy bút
Chong
đèn, đối bóng đã nhòa gương
Nhân
sinh chỉ một tuồng dâu bể
Thành,
bại, hơn, thua ấy lẽ thường…
(Nguyễn Kinh Bắc)
Nghĩa
là Kinh Bắc so với tuổi lão lai của nhà thơ Tường
Linh, còn cách biệt xa, nhưng dù thế hệ trẻ, vẫn có
thể nhận định cuộc đời bất như ý là lẽ thường,
thì thôi nhà thơ hãy tâm sự cùng giấy bút là vô tư,
thoải mái vậy.
Tiếp
theo, nhà thơ Tường Linh lý giải thuyết “tài mệnh
tương đố”, và cũng như quý vị văn nhân, thi sĩ khác,
là ví giống như cuộc đời Thúy Kiều của cụ Nguyễn
Du, “Thơ thánh không lùi được nhiễu nhương”!
Đoạn
này trong “Bài Mừng Tuổi Muộn” của Nguyễn Kinh Bắc
lại bầy tỏ sĩ khí nhiệt tình của một kẻ sĩ nói
chung, và một quân nhân VNCH nói riêng, rằng:
Nay
tuổi đã già như bóng xế
Con
đường trước mặt vẫn mù sương
Con
đường trước mặt còn gai góc
Dù
chẳng binh đao cũng chiến trường
Dĩ
vãng qua rồi khôn níu lại
Cây
đời mai sẽ trổ mầm ương
Muôn
thuở anh hùng đâu thiếu nhỉ
Bao
giờ tái hiện bóng Long Nhương
(Nguyễn Kinh Bắc)
Cũng
vần “nhương” của nhà thơ Tường Linh, “nhiễu
nhương” quả là tử vận, nhưng Kinh Bắc đã mượn tước
hiệu của anh hùng Nguyễn Huệ, sau là vua Quang Trung, có
tước hiệu Long Nhương Tướng Quân thì thật bất ngờ
và khéo chọn từ “nhương” nếu không muốn nhắc
lại 2 chữ “nhiễu nhương” của bài xướng.
Thế
rồi thì, nhà thơ đành trở về thực tế, là người vợ
tròn nghĩa tao khang, đã cùng ông thi sĩ Tường Linh trôi
nổi trong cuộc đời phức tạp:
Chén
nữa ta mời em uống cạn
Rượu
tình cất bởi nước sông Tương…
(Tường Linh)
Đây
một bài thơ mừng tuổi muộn
Thay
lời như một chén Quỳnh Tương
(Nguyễn Kinh Bắc)
Cả
hai bài “Hành Tuổi Sáu Mươi” của thi sĩ Tường Linh
(viết năm 1991) và “Bài Mừng Tuổi Muộn” của thi sĩ
Nguyễn Kinh Bắc (họa vần ngày 12-5-2013) đều có những
lời hay, ý đẹp. Phàm một bài Hành phải biểu lộ được
ý đẹp, và nhất là lời lẽ bay bướm, kiểu “Tống
Biệt Hành” của thi sĩ Thâm Tâm, là hết có thể tìm
được ngôn ngữ thơ nào tuyệt tác hơn:
Người
đi, ừ nhỉ, người đi thực
Mẹ
thà coi như chiếc lá bay
Chị
thà coi như là hạt bụi
Em
thà coi như hơi rượu say…
(Thâm Tâm)
Do
đó, tôi xin đan cử 2 câu kết của 2 bài hành đương
nêu, thấy rằng xướng họa Hành cũng tuyệt vời như
xướng họa thơ Đường luật:
Cạn
chén. Tiễn chiều. Trăng gọi bút
Đám
Quỳnh hẹn tỏa ngát duyên hương.
(Tường Linh)
Thưa
quý vị, ai cũng biết hương quỳnh thơm ngát, nhưng hoa
quỳnh ở Việt Nam phải chờ đợi giờ hoa nở, và thưởng
thức cũng… vất vả lắm, vì hoa chỉ nở có mấy giờ,
nhưng hương quỳnh Việt Nam thì thật ngào ngạt, mênh
mông.
Vẫn
nhất quán cách nhìn sự thế của một quân nhân, đầy
tin yêu và hy vọng:
Những
cuộc hành trình đang tiếp tục
Đất
trời ngan ngát bóng quê hương…
(Nguyễn Kinh Bắc)
Để
kết thúc, tôi xin ghi lại vài dòng trong bài Lời Tựa
“Trăng Treo Đầu Súng” của Tường Linh, do nhà thơ
thiếu tá Tô Kiều Ngân viết, mà nhà thơ Nguyễn Kinh Bắc
rất thích và hay diễn đạt lòng quý trọng thi ca với
chúng tôi:
“Đọc
thơ Tường Linh để yêu đời lính, yêu loài người, và
yêu nhau hơn”. (Tô Kiều Ngân)
Cũng
có thể nói: Thi ca trong sáng là mối chân tình của người
đối với người, mà Thượng Đế đã dành cho nhân loại.
Xin gởi lời cung chúc khánh thọ thi sĩ Tường Linh luôn
vui tươi, tinh tấn và sáng tác trong niềm tin tưởng lạc
quan nơi thế giới thơ bao la, phong phú của dân tộc Việt
Nam thuần túy xa xưa….
Hawthorne,
17-5-2013
CAO MỴ NHÂN
HÀNH
TUỔI SÁU MƯƠI
Vượt
cuộc nhân sinh quá nửa đường
Sáu mười năm chẵn,
góc chiều thương
Rượu bày ước lệ mời thơ lại
Gia
định giờ thêm ý cố hương
Sáu mươi sinh nhật không
mừng tiệc
Vui vẻ chi ngày ngựa khớp cương
Nhập
thế chỉ đau cùng cõi thế
Có ta nên có vị Hồ trường
!
Hồ trường ai nỡ chiêu bằng hữu
Ai nỡ chia sầu
đến mấy phương ?
Lặng lẽ một đời, thêm lặng
lẽ
Không cần nhìn lại bóng trong gương
Cũng thừa
biết tóc tiêu pha muối
Mắt vẫn đăm chiêu nỗi thế
thường
Cũng thấy hình hài vô nghĩa đứng
Nhò nhoi,
xa vắng giữa mùa sương
Mở lời định hỏi cung Tài,
Mệnh
Lại gặp Kiều nhi khóc đoạn trường
Rả rích
mưa thời Gia Tĩnh vọng
Hồng nhan, bạch diện chịu tai
ương
Tố Như, ngọn bút lừng kim cổ
Thơ thánh không
lùi được nhiễu nhương
Ý thiện khó xoay tâm ác
chuyển
Trăng soi lòng trúc chẳng soi tường
Chưa qua
“tam bách dư niên hậu”
Vàng cỏ thanh minh, úa cỏ
vườn
Bước ngựa chàng Kim chồn nẻo lạc
Mắt Kiều
cũng bỏ hướng Liêu Dương
Lời ai thổn thức “tân
thanh” mới
Gọi nguyệt cầm buông điệu chán
chường
Sáu chục, một trăm... rồi cũng vậy
Nhân
sinh là nợ một đời vương
Ðã từng vuốt mắt bao
huynh đệ
Ðưa khổ hồn qua cuộc hý trường
Từng
tiễn người đi vào huyễn mộng
Mắt cay mùa gió ngợp
sầu thương
Trở
về gác lạnh nhìn sao rụng
Chánh vạc ngang trời thả
tiếng sương
Ngổn ngang thế sự hay tâm sự ?
Ta hỏi
ta và hỏi bốn phương
Chỉ một em mừng ta sáu chục
Sao
đành từ chối nhận men hương
Thì thôi ta hãy uống
cùng ta nhé !
Tròn nghĩa tao khang bất ... hạ đường
Em
mãi vì ta giành khổ hạnh
Ta vì em mãi giữ thiên
lương
Hơn ba thập kỷ vì nhau sống
Kết với tha
nhân mối đạo thường
Chén nữa, ta mời em uống
cạn
Rượu tình cất bởi nước sông Tương
Trở
lại góc chiều sinh nhật vắng
Buồn buồn ngẫm nghĩ
thử soi gương
Ngẩn ngơ trước một “người quen”
cũ
Máu đã rơi chung mấy chiến trường
Tóc đã phai
chung vì tuế nguyệt
Chung mùa tuyệt tích, ngựa gò
cương
Chung sinh, chắc chắn còn chung tử
Chung ý thơ
ghi mỗi chặng đường...
Cạn chén. Tiễn chiều. Trăng
gọi bút
Ðâm quỳnh hẹn tỏa ngát duyên hương
Tường
Linh
* Sài Gòn sinh nhật thứ 60
[bài
họa của Nguyễn Kinh Bắc]
BÀI
MỪNG TUỔI MUỘN
“Một mai dù gục ở bên
đường” (1)
Thơ viết ngày nào gợi mến thương
Mấy
chục năm vèo trong chớp mắt
Người còn phiêu bạt
giữa quê hương
Trăng xưa đã hết treo đầu súng
(2)
Chiến mã bên trời lạc mất cương
Nay
lắng hồn thơ trong phẫn hận
Lời đau vang vọng suốt
canh trường
Canh trường độc ẩm riêng ai nhỉ ?
Bằng
hữu chia lìa khắp bốn phương
Tâm sự gửi đâu, này
giấy bút
Chong đèn đối bóng đã nhòa gương
Nhân
sinh chỉ một tuồng dâu bể
Thành bại, hơn thua ấy lẽ
thường
Nay tuổi đã già như bóng xế
Con đường
trước mặt vẫn mù sương
Con đường trước mặt còn
gai góc
Dù chẳng binh đao cũng chiến trường
Dĩ vãng
qua rồi khôn níu lại
Cây đời mai sẽ trổ mầm
ương
Muôn thuở anh hùng đâu thiếu nhỉ ?
Bao giờ
tái hiện bóng Long Nhương ? (3)
Phá tan xiềng xích đời
nô lệ
Ngày ấy quê hương lại cát tường
Dân chủ
chan hòa trên khắp cõi
Để hoa đua nở đẹp trong
vườn
Để thêm thắm đượm hồn sông núi
Rực rỡ
cờ vàng dưới ánh dương
Chính nghĩa rạng ngời
xua bóng tối
Quỷ ma tan tác, mặt thôi chường
Qua
mùa tị nạn lưu vong ấy
Trở gót quay về không vấn
vương
Tâm sự có đâu như Bá Trác
Mà ngâm nga mãi
khúc Hồ Trường
Yêu quê, quê chẳng bao giờ mất
Mỗi
bước lâm hành mỗi luyến thương
Hai chục năm dài xa
đất mẹ
Vẫn còn lưu lạc giữa phong sương
Gợi
bao kỷ niệm trong thời trẻ (4)
Khi đọc thơ người
nơi viễn phương
Ôi những tâm tình pha máu lệ
Nhưng
lòng mãi mãi giữ thơm hương
Biết đâu sẽ có ngày
tao ngộ
Sánh bước bên nhau vạn nẻo
đường
Đất nước vươn mình thêm lớn dậy
Dân
tình rồi cũng hết thê lương
Ai xây ảo vọng trên
nhung gấm
Người vẫn an vui giấc mộng thường
Đây
một bài thơ mừng tuổi muộn
Thay lời, như một chén
quỳnh tương
Xóa tan những nỗi sầu nhân thế
Mình
lại soi mình trước giá gương
Soi mình, ừ nhỉ, đâu
ai khác
Nào phải Kiều nhi khóc đoạn trường
Đã có
một thời quen lửa đạn
Tinh thần vững tựa đá hoa
cương
Trăng xưa đã hết treo đầu súng
Nhưng vẫn
còn soi những dặm đường
Những cuộc hành trình đang
tiếp tục
Đất trời ngan ngát bóng quê hương
(1)
Một mai dù gục bên đường
Đời sau sẽ rước nắm
xương khải hoàn
(Thơ Tường Linh- Trăng Treo Đầu
Súng)
(2) Trăng Treo Đầu Súng : Thơ Tường Linh, (không
nhớ rõ năm ấn hành) bìa Tạ Tỵ, lời tựa của Tô Kiều
Ngân, trong đó có câu kết mà tôi rất thích "Đọc
thơ Tường Linh để yêu đời lính, yêu loài người, và
yêu nhau hơn".
(3) Long Nhương : tức Long Nhương
Tướng Quân, một tước hiệu của Nguyễn Huệ trước
khi lên ngôi vua.
(4) Thi sĩ Tường Linh đã tặng thân
phụ tôi tập thơ Trăng Treo Đầu Súng. Đây là tập thơ
đầu tiên trong đời tôi đã được đọc, khi mới 12
tuổi.
Nguyễn Kinh Bắc
Philadelphia 12-5-2013