Tôi
được biết nhà văn nữ Võ Thị Điềm Đạm chừng hai
năm qua một vài truyện ngắn đã đăng đâu đó. Bởi
tôi đọc gấp rút và lơ đễnh nên không nắm ý tình của
văn chương chị bao nhiêu. Nhưng được tin chị chiếm
giải văn chương do Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do
năm 2008 và tình cờ đọc một bài phỏng vấn chị do nhà
báo Tô Vũ thực hiện. Bài này đã đăng trên website
Nam
kỳ Lục tỉnh (www.namkyluctinh.org)
nên tôi nghĩ rằng đây là nhà văn gốc Nam Kỳ nên tôi
gởi vi thư chúc mừng chị.
Mối
giao tình do văn chương kết hợp khởi đầu từ đó.
Cho tới tiết sơ thu trên đất Pháp thì nó đã ngót nghét
vài tháng rồi. Và chị ngỏ ý nhờ tôi viết BẠT
cho tập truyện ”Thiên Thanh” của chị. Vậy
là tôi có dịp đi vào khu vườn văn chương của một nhà
văn nữ gốc Phan Thiết đã từng sống ở Sài Gòn từ
năm mười sáu tuổi.
Các
bạn độc giả có thể lầm tưởng rằng Võ Thị Điềm
Đạm là cây bút Nam Kỳ vì giọng văn của chị rất là
Nam Kỳ còn hơn là giọng văn của các nhà văn gốc Nam Kỳ
chính cống như Phan Thị Trọng Tuyến, Nguyễn Thị Ngọc
Nhung, Trần Thị Kim Lan ở hải ngoại và xa hơn như Nguyễn
thị Thụy Vũ vào thời chiến tranh Quốc Cộng, trước
năm 1975. Điều ấy có gì lạ đâu. Tỉnh Phan
Thiết ở vào vị thế cánh cổng đi vào cuộc đất Nam
Kỳ Lục Tỉnh cho nên ngôn ngữ và cách phát âm dân Phan
Thiết giống ngôn ngữ và cách phát âm dân Nam Kỳ 100%.
Bởi thế cho nên vào thập niên ba mươi, nữ nghệ sĩ nền
ca kịch cải lương là cô Sáu Ngọc Sương ca cổ nhạc
Nam Kỳ rất rựa ràng, diễn những vai lẳng hay vai thương
cảm có kém gì hai nữ nghệ sĩ Ngọc Hải hay Kim Cúc trên
sân khấu Việt Kịch Năm Châu và có thể chen lấn vào
hàng ngũ Năm Phi, Phùng Há, Bảy Nam, Thanh Tùng, Kim Thoa,
Thanh Loan, Sáu Nết, Kim Cúc, Kim Lan, Ngọc Hải...
Văn
phong của Võ Thị Điềm Đạm chẳng những giống y chang
người Nam Kỳ mà cái phong thái trong văn lại hiện lồ
lộ trạng thái tinh thần (la mentalité) người Nam Kỳ
một cách đậm đà duyên dáng. Có thể ở ngoài đời
chị là một nhân vật điềm đạm, ôn nhu. Nhưng
trong văn chương, dù không suồng sã, lả lơi, bộc tệch,
nhưng bút pháp chị biểu hiệu một giọng điệu nghịch
ngợm, dí dỏm, rạng ngời một tâm hồn lạc quan trong đa
số truyện ngắn. Văn phong của Võ Thị Điềm Đạm
không thể tượng trưng cho nét thêu tỉ mỉ trên lụa,
trên nhung, cũng không gợi nên nét bút khải thư (chân
phương) ở vẻ chăm chút và xương kính. Nó cũng
không gợi nét phóng bút hoành tráng trên bức đại tự.
Đây là biểu tượng nét chử thảo cực kỳ uyển nhuyển,
bay bướm và lả lướt mà không mạnh bạo đến độ
phóng cuồng, ngạo mạn.
Tập
truyện ”Thiên Thanh” gồm có mười lăm truyện
ngắn :
Điệu
Luân Vũ Bên Bờ Donau
Lãng
Đãng Thức Mây
Mùa
Russ
Hai
Người mẹ Nhỏ
Đời
Tôi Là Thế Đó!
Cà
Ty Tự Khúc
Mãi
Mãi...
Nỗi
Đau Này Biết Nói Đến Bao Giờ ?
Thiên
Thanh
Em
Hồi
Đó...
Căn
Bệnh Hiểm Nghèo
Tình
Xuân Cuối Đời
Trong
Con Hẻm Cụt
”Thiên
Thanh” không quy tụ những
truyện ngắn chung một đề tài thuần nhất. Rất
nhiều đề tài được tác giả khai thác một cách chi ly
tỉ mẫn nhưng vô cùng hào hứng. Chị có kinh nghiệm
sống phong phú, có sự quan sát tinh nhuệ, có tư duy sâu
sắc và có sự cảm ứng bén nhạy. Thế giới văn
chương của chị nhờ vậy mà đa dạng đa sắc, tình
người của chị thêm bát ngát mênh mông và ăm ắp niềm
thông cảm.
Trong
tập truyện ”Thiên Thanh” có
truyện mô tả nghịch cảnh với các nhân vật sống trong
góc kẹt tối tăm dẫy đầy ngang trái đau lòng, giữa
lòng xã hội phức tạp. Xin hãy xem hoàn cảnh thằng
bé mồ côi Rune trong truyện ngắn Đời
Tôi Là Thế Đó! ”. Ở
đây, thân phận trẻ em mồ côi được các cơ quan từ
thiện do đạo Gia-Tô sáng lập mà kẻ thừa sai lãnh phần
chăm sóc những trẻ bất hạnh không do lòng bác ái do
Chúa Ki-Tô xiển dương mà do sự trói buột lỏng lẻo của
bổn phận đúng hơn. Chúng ta còn chứng kiến qua
ngòi bút phanh phui sắc của nhà văn họ Võ cảnh hai cô
bé nghèo nàn săc sóc đứa em trai, một trong gia đình li
dị bên Na Uy, một trong gia đình mẹ chết sớm chỉ còn
cha và bà ngoại già yếu trên đất nước Việt Nam qua
truyện ngắn”Hai Người mẹ
Nhỏ”. Chúng ta còn được
tác giả mời dự khán hoàn cảnh những nàng chinh phụ
trong cuộc chiến Đông Dương giữa Pháp và Việt Pháp và
trong cuộc nội chiến Quốc Cộng qua truyện ngắn đậm
đà sắc thái tùy bút ”Nỗi Đau
Này Biết Nói Đến Bao Giờ ?” Những
đề tài này không phải chẳng có ai khai thác ; nhưng
những chi tiết đặc thù và cực kỳ sống động làm cho
chúng trội hẳn những cây bút tả chân hiện thực vốn
chỉ là chân tháp ngà hóng chuyện hoặc đọc báo rồi
tưởng tượng vẽ vời thành một câu chuyện hẳn hoi.
Chi
tiết trong các tác phẩm càng nhiều bao nhiêu càng nâng
giá trị của tác phẩm, càng nhen nhúm thêm sự sống động
lẫn sống thực cho tác phẩm, càng tô thêm cái đẹp của
bút trình tác giả bấy nhiêu. Những truyện vừa kể
trên đượm đà tính chất tả chân hiện thực, luôn cà
truyện ngắn ”Cà Ty Tự Khúc”. Truyện này
dù tác giả nhân cách hóa con sông thành một nhân chứng
lịch sử, đã từng chứng kiến hoàn cảnh và tâm tình
một gia đình trong cuộc chiến chống Pháp. Tới ngày
tàn cuộc chiến, sau hiệp định Geneva, người chồng theo
cánh Việt Minh Cộng Sản tập kết ra Bắc, rồi kẹt luôn
ngoài ấy suốt hai mươi năm sau. Người vợ ở miền
Nam thủ tiết nuôi đứa con gái cho tới khi nó trở thành
thiếu nữ lấy chồng là một sĩ quan của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa. Khi người chồng tập kết trở về
thì người vợ đã quá tuổi thanh xuân, còn ông thì đã
có vợ khác. Muốn chuộc lỗi lầm của mình, ông
giúp vợ con mình vượt biên. Dòng sông Cà Ty đưa
hai mẹ con ra biển, thầm chúc cho cả hai được đến bến
bờ tự do. Câu chuyện dù có khoác nếp áo hòa hoa
thơ mộng nhưng nội dung và tình tiết câu chuyện vẫn là
chuyện hiện thực.
Còn
truyện ”Căn Bệnh Hiểm Nghèo” Nói tới xã
hội đỏ đen lậu của người Hoa Kiều trên nước Na
Uy. Người con trai thua bạc liên miên, nợ nần chồng
chất. Bà mẹ vì thương con, muốn giúp đỡ con,
nhưng e ngại bố dượng của đương sự eo sèo nên toan
li dị người chồng chắp nối của mình để giúp tiền
bạc cho con mà không bị chồng trách móc. Sự hy sinh
cua mẹ làm người con trai hồi tâm, quyết định bỏ thói
ham mê cờ bạc để làm lại cuộc đời. Ở đây,
sự hy sinh vô điều kiện của bà mẹ làm loãng nhạt
tính chất hiện thực ít nhiều, nhưng nó hiển lộ lòng
mẹ sáng lộng lẫy như bóng trăng rằm.
Như
tôi đã nói, tập truyện ”Thiên Thanh” có nhiều
đề tài đa dạng. Nó lại còn có nhiều chất liệu
phong phú, có nhiều khía cạnh xã hội phồn tạp.
Điều ấy chứng tỏ tác giả đã đi và sống nhiều nơi,
thu thập nhiều kinh nghiệm sống quý báu rất cần thiết
cho một cây bút tả chân hiện thực.
Trong
tập truyện có vài hình bóng của người đàn bà tị nạn
Việt Nam sống êm đềm hạnh phúc bên người chồng bản
xứ và những đứa con mà nhận thức về quê ngoại còn
mơ hồ. Nhưng người đàn bà lấy chồng dị chủng
lại không quên cái truyền thống dân tộc mình. Đó
là bà Minh, vợ ông Lars-Erik, mẹ cô nữ sinh Stella trong
truyện « Mùa Russ ». Bà thấy bọn học sinh
chơi giỡn quá luông tuồng nên sợ con gái mình lơ là
chuyện đèn sách nên muốn cho con giữ sự quân bình giữa
hai vấn đề ăn chơi và học hành. Bà thường khuyên
răn con gái bằng câu : « Học mà không chơi
uổng đời tuổi trẻ. Chơi mà không học bàn rẻ
tương lai. »
Trong
truyện ”Mãi Mãi” cô bé nữ sinh cũng có bà
mẹ Việt Nam. Bà ta dù đã an cư lạc nghiệp bên
người chồng Na Uy và có đứa con gái ngoan chăm chỉ học
hành, nhưng bà làm sao quên được cơn ác mộng trải dài
suốt một chặng đường lịch sử trên đất nước quê
hương của mình. Bà cũng không thể quên nỗi khó
khăn trong việc hội nhập vào nước Na Uy để đất nước
ấy trở thành quên hương thứ hai của bà sau này.
Cho nên bà giúp con gái mình làm một bài luận văn trả
rộng tâm tình cùng hoàn cảnh của mình. Có vậy
Stella mới phóng bút làm một bài luận xuất sắc nhất
trong lớp.
Trừ
truyện thứ nhất trong tập truyện với cái tựa :
”Điệu Luân Vũ Bên Bờ Donau”, hình ảnh quê
hương Phan Thiết nếu không xen kẻ hoặc rỉ rả len lỏi
vào cuộc sinh hoạt cùa kiều bào trên đất Na Uy. Tuy
nhiên cùng với ba truyện ngắn : ”Cà Ty Ca Khúc”,
”Tết Phan Thiết”, ”Hồi Đó” được tác giả
vạch lên những nét tạo hình rất thân thương. Đây
là cái Tết ở làng Đại Nẫm quê nội lẫn quê ngoại
của tác giả, một làng trù phú ở vùng phụ cận thành
phố Phan Thiết. Những nét cổ truyền, một vài
phong vị trong những ngày đón xuân ở Phan Thiết phản
ảnh 95% được hình bóng cái Tết ở đất nước Nam Kỳ
Lục Tỉnh. Nhưng có khác chăng là nhờ vào đất đai
trù phú, nên dân Nam Kỳ Lục Tỉnh từ bậc trung lưu trở
lên sắm sửa nhiều món ăn ngon hơn như canh hầm, bì gói,
nem chua, dưa hấu... ? Dân Phan Thiết đa số dư
ăn dư để cũng có thể hiện được những món trân cam
giai nhục như thế, nhưng có phải chăng tác giả kể qua
loa vài món tiêu biểu nên bò sót vài món cổ truyền
đi ? Hoặc là có phải thuở chị còn ăn Tết ở
tại quê nhà, óc quan sát của chị vì bị ám ảnh bởi
chiến tranh nên không được tinh nhuệ nên chị quên đi
vài món ăn hâm đi hâm lại nhiều ngày để ăn tới hôm
cúng tất (người Bắc gọi là cúng hóa vàng) ?
Không đâu. Tết Phan Thiết có những món ngon vật lạ
khác mà Tết Nam Kỳ không có như rượu nếp than, cơm
rượu, cốm, thịt bò ướp sả ớt cuốn từng lọn, măng
kho... Cái Tết Phan Thiết trong văn chương Võ Thị Điềm
Đạm chúng ta không biết có phải vào thuở thanh bình hay
vào thời chiến tranh, nên độc giả không nghe được một
tiếng pháo nào hoặc tiếng súng nào.
Còn
truyện ngắn”Hồi Đó... ” tuy tác giả nhắc lại
chuyện ăn trầu xỉa thuốc của bà nội và của mẹ mình
cùng chuyện đi xem hát bội thuở ấu thơ của mình, nhưng
đây không phải là truyện phong tục đơn giản mà nó
trói buộc vào thời khói lửa giữa hai phe Quốc Cộng
tương tranh. Chuyện trầu cau vôi thuốc, chuyện hát
bội theo dòng biến chuyển sinh diệt dần dần rút lui ra
khỏi đất nước chúng ta khi thế hệ dân chúng sinh
trưởng vào đầu thập niên bốn mươi lần lượt trưởng
thành. Tới thập niên bảy mươi, chúng còn tồn tại
chăng thì cũng chỉ xuất hiện lẻ tẻ hoặc sinh hoạt
yếu ớt. Đọc ”Hồi Đó... ”, chúng ta mới
thấm thía hai mặt trái và thật của nghệ sĩ sân khấu.
Các diễn viên vốn là những kẻ tầm thường về sắc
vóc, thân thế, cách sinh hoạt ở ngoài đời. Nhưng
khi họ xuất hiện trên sân khấu, nhờ ánh đèn rọi,
phấn son, y trang, hia mảo, nghệ thuật ca diễn biến đổi
họ thành những nhân vật xuất chúng làm người xem
ngưỡng mộ say mê. Đó là hai bản mặt của một
đồng tiền, hai nhân vật của một con người. Hoặc
nói theo kinh Phật, đó là hai Tướng (hiện tượng)
cùng một Tánh (bản thể).
Truyện
ngắn ”Trong Con Hẻm Cụt” không phải chỉ
là truyện hiện thực suông trơn đâu, mà là bức tranh
buồn thảm về cuộc đời một thiếu nữ bị người đời
bỏ quên thuở cô ta còn là nữ sinh, sống nghèo nàn trong
hẻm cụt. Cô cố gắng ăn học để khi ra đời có
công ăn việc làm đỡ cực nhọc khác hơn mẹ và chị
của mình. Trong lớp cô không tham gia vào sinh hoạt
của bạn bè nên thét rồi chẳng ai thèm chú ý đến cô.
Khi ra trường, cô dạy học ở một tỉnh lỵ khuất
lánh. Sau khi đất nước bị Cộng quân cưỡng chiếm,
cô vẫn sống thui thủi. Nhưng sau khi cha mẹ chết,
cô về căn nhà cũ mở lớp dạy học, tìm lại được
ánh mắt và nụ cười thân thương của học trò.
Võ
Thị Điềm Đạm đâu có quên độc giả thích ngược
dòng dĩ vãng để trở về tuổi trẻ. Có nghĩa là
chị vẫn cống hiến cho họ nhiều chuyện tình.
Không phải chỉ toàn là những chuyện tình suông trơn mà
đa số là chuyện tình có gắn bó vào mệnh nước nổi
trôi và vào những sóng lớp phế hưng của lịch sử.
Qua
truyện ngắn ”Em”, chúng ta gặp gỡ bà Thư cựu
nữ sinh Sài Gòn đã từng yêu Hải, được hãnh diện và
hạnh phúc khi được xưng em với chàng. Khi đất
nước đổi cờ, cả hai vĩnh viễn xa nhau. Thư vượt
biên và định cư bên Na Uy, lấy chồng bản xứ.
Trong cơn ân ái mặn nồng Harald, chồng Thư mong Thư nói
những câu âu yếm yêu đương bằng tiếng Việt cho chàng
nghe, nhưng Thư chỉ siết chặt chồng, hôn chồng thắm
thiết hơn. Nàng không muốn xưng ”em” với
chồng và nói những câu âu yếm bằng tiếng Việt.
Sau mười năm xa Hải, sau hai mươi năm làm vợ Harald, nàng
chỉ muốn dành những câu ân tình xa xưa mãi mãi cho Hải.
Điều đó, ghi một vết chàm trong lòng Harald.
Truyện
ngắn ”Thiên Thanh” là một câu chuyện tình giữa
anh tiền tuyến và em hậu phương. Sau khi miền Nam
Việt Nam bị thất thủ, tác giả buông lửng ở đây,
không cho chàng ngã gục trong cuộc đụng độ cuối cùng.
Chị cũng không tiêp tay Việt Cộng thảy chàng vào trại
tù cải tạo. Tuy nhiên, Sương, cô em nữ sinh viên
vẫn triền miên phân vân lo lắng số phận người
bại binh sẽ ra sao.
Đây
là hai đề tài hấp dẫn cho đa số nhà văn nữ lẫn nữ
độc giả. Đề tài nàng cô phụ khi kết hôn vẫn
còn mang theo hình bóng cố nhân. Thảo nào mà quyển
”Dứt Tình” của Vũ Trọng Phụng hồi tiền chiến
bán chạy như tôm! Thảo nào mà quyển ”Sống Chỉ
Một Lần” của Mai Thảo hồi còn trong nước
tái bản sáu lần, mỗi lần năm nghìn ấn bản! Thảo
nào mà hai bài thơ ”Hai Sắc Hoa Ty-gôn” và ”Bài Thơ
Đan Áo” của T.T.Kh được hàng triệu độc giả yên
thơ ngưỡng mộ! Dân tộc nào mà chẳng có đa số
độc giả hâm mộ văn chương suy tôn tình yêu? Nhà
văn Đức với E. M. Remarque trong truyện dài ”Le Temps
D’Aimer et le Temps de Mourir” đã gặt hái cả sông cả
biển nước mắt khán giả trên toàn cầu; đến khi điện
ảnh gia Douglas Sirk chuyển thể tác phẩm thành phim đã
nâng cao tên tuổi đôi tài tử John Gavin và Lisolette Pulver
trong bóng tối lờ mờ nhảy ra thành minh tinh. Nữ sĩ
Hàn Tố Anh (Han Suyin) vốn cha Tàu mẹ Bỉ viết mấy cuốn
sách đầu bằng chữ Anh không mấy ăn khách. Nhưng
đến khi bà tung ra quyển tiểu thuyết tự truyện ”A
Many Splendored Thing” thì hàng triệu con tim các
độc giả trên thế giới phải rung động bàng hoàng.
Điện ảnh gia Henry King chuyển thể nó thành cuốc phim
”Love is a Many Splendored Thing” (”Tình Yêu Lộng Lẫy”)
làm cho đôi minh tinh William Hodden và Jennifer Jones leo
lên tuyệt đỉnh danh vọng. Đã vậy tiếng hát
truyền cảm của Andy Williams qua ca khúc cùng tựa với
quyển tiểu thuyết và cuốn phim nhờ thế mà đi sâu vào
vào cõi thưởng ngoạn của thính giả sành điệu quốc
tế từ thập niên năm mươi đến giờ.
Truyện
ngắn ”Lãng Đãng Thức Mây” nói lên tình yêu của
một cặp vợ chồng tuổi bước vào mùa thu cuộc đời.
Minh, người chồng thường chat qua internet
với cô tình nhân Tím Tím. Thu, người vợ không biết
xài internet, nhưng nghi ngờ chồng mình thường trò
chuyện bằng chat với người đàn bà khác nên nàng
âm thầm khổ sở vì ghen tuông. Tuy nhiên Minh còn yêu
vợ nhà. Màn chat chót, chàng chuyện trò mùi
mẫn, âu yếu du dương với Tim Tím, nhưng chàng thổ lộ
với cô ta rằng chàng vẫn yêu Thu trước sau như vậy.
Cử chỉ hồi ”chánh” là rủ vợ đi du lịch
bên Luân Đôn và xem ca kịch. Chắc có lẽ Minh muốn
tái diễn tuần trăng mật để chuộc tội với người vợ
tào khang của mình chăng? Tuy nhiên, dù cuộc du lịch
kia có tái, có nạm, có gầu chăng nữa thì tô phở ”Lãng
Đãng Thức Mây” vẫn là một đề tài phổ thông.
Tuy nhiên, nhờ văn phong nồng mặn thơm tho những gia vị
mà nước lèo của tô phở vẫn hợp khẩu vị với mọi
tầng lớp độc giả, vẫn quyết rũ đượm đà khó tả.
Đã
viết về tình yêu, Võ Thị Điềm Đạm không nỡ bỏ rơi
mấy ông già có cái trái tim mảnh mai nên dễ mẫn cảm
trước cái vỗ nhẹ của những đợt sóng tình.
Truyện ngắn ”Tình Xuân Cuối Đời” được diễn
tả bằng những lời đối thoại thuần túy; tác giả
thuật không cần thuật chuyện hay miêu tả. Đây là
những lời đối thoại rặc ròng giọng điệu Nam Kỳ,
tía lia một cách mặn nồng, véo von một cách duyên dáng.
Nam nhân vật chỉ xuất hiện trong cuộc đàm đạo
giữa bà vợ và cô cháu gái của ông ta; giữa cô cháu
gái và người cô phụ tên Xuân Thảo mà ông chỉ gặp
một lần nhưng ông đã yêu nàng bằng mối tình đơn
phương. Đó là một ông già bảy mươi tuổi mắc
bịnh ung thư, người nhà đoán chừng trong vòng hai năm là
ông sẽ nhắm mắt buông xuôi. Nhưng mà không!
Sau hai năm, ông lại có vẻ khỏe mạnh hơn, ăn mặc chải
chuốc hơn, lại làm thơ và cho xuất bản hai tập thơ,
lấy bút hiệu là Vĩnh Thường. Riêng thi tập có cái
tựa ”Tình Xuân Cuối Đời” ông ta có đề
giòng trang tặng: ”Trao về em thương yêu cuối đời”
Qua cái tựa của thi tập, bà vợ và cô cháu tưởng là
ông tặng thơ cho vợ vì bà tên Ngọc Xuân. Nhưng khi
cô cháu viếng thăm cô bạn tên Xuân Thảo thì cô bạn
cho biết rằng nhà thơ Vĩnh Thường thích điện đàm với
cô và chỉ xin cô chấp nhận tình yêu đơn phương của
ông ta. Những cuộc điện đạm ấy mới có thể
tiếp sức sống cho ông ta. Bởi đó mà thi tập mới
có cái tựa ”Tình Xuân Cuối Đời”. Và độc
giả chúng ta chắc cũng thừa biết lời trang tặng ở
trang đầu tập thơ dành cho Xuân Thảo chớ không phải
cho bà vợ luống tuổi Ngọc Xuân.
Truyện
ngắn ” Điệu Luân Vũ Bên Bờ
Donau” không hẳn thuần túy
là chuyện tình yêu của chàng nhạc sĩ Johann Strauss, người
đã khai sinh ra thể loại vals
(luân vũ) nhịp ba, mà là mối giao cảm giữa thơ, nhạc,
hội họa và vũ điệu. Hai nhạc phẩm bất hủ của
Johann Strauss được phổ thông trong trường nhạc giới
Việt Nam là ”Le Beau Danube Bleu”
(Phạm Duy phổ lời Việt với cái tựa ”Dòng Sông Xanh”)
và ”One day, When You Were Young”. Sự
sáng chế điệu vũ vals thật
giản dị: Johann Strauss dạo dọc theo sông Danube (Người
Đan Mạch thì gọi Danau) gặp những cô thiếu nữa giặt
áo bên bờ sông. Các cô ấy lấy chiếc chày đập
trên chiếc áo đã nhúng ướt nước, cứ hai cái đập
nhẹ thì xen vào một cái đập mạnh. Điệu luân vũ
thế là được chào đời qua bài ”Le
Beau Danube Bleu”. Nhưng âm
hưởng tuyệt phẩm âm nhạc ấy một khi chui vào cõi rung
cảm và cõi thưởng ngoạn của Võ Thị Điềm Đạm rồi
thì nó trở thành một câu chuyện truyền kỳ cực kỳ
diễm lệ. Chị cho Johann Strauss sáng tác bài ”Le
Beau Danube Bleu” có cái gì không
ổn cho nên trong đêm mười bốn âm lịch chàng mơ thấy
thần nữ Giáng Tiên trong giấc chiêm bao cho biết rằng
xưa kia Johann Strauss là vua Lê Thánh Tôn, nguyên soái của
tao đàn Nhị Thập Bát Tú đã từng gặp nàng tại chùa
Ngọc Liên. Vua mời nàng về cung cấm, nàng nhận lời
bước lên kiệu, buông rèm theo đoàn hành hương trở về
Đế Đô. Nhưng khi tới nơi thì nàng biến mất.
Huyền thoại đẹp ấy đã được đấng quân vương lỗi
lạc về thi ca kia sáng tác bài thơ có hai câu: ”Gió
thông đưa kệ tan niềm tục - Hồn bướm mơ tiên lẩn sự
đời. Giáng Tiên còn cho
nhạc sĩ biết: ”Thiếp muốn lấy
khúc luân vũ gợi lên hồn nhạc trong hồn tiên đế.”
Và nàng múa một điệu nhịp nhàng, xiêm y tha thướt bay
tung theo từng bước nhảy. Hôm sau, vào đêm rằm thì
có một mỹ nhân khác hiện đến trong giấc mơ của nhạc
sĩ cho chàng biết tiền thân của chàng là họa sĩ Tú
Uyên cư ngụ tại phường Bích Câu, còn nàng là tiên nữa
Giáng Kiều đã được chàng thể dung nhan tuyệt trần của
nàng trong bức tranh bất hủ của chàng. Nàng bảo
Johann Strauss: ”Cung nhạc đêm qua
chưa trọn, phiến nhạc đêm qua còn nhiều vấn vương.
Nét nhạc đêm qua còn nhiều trống không. Điệu vũ
đêm nay còn chờ bước chân thiếp...” Và
Giáng Kiều nhảy theo điệu luân vũ, rót thêm nguồn cảm
hứng vào hồn nhạc của Johann Strauss. Đêm mười
sáu âm lịch, tiên nga Giáng Ngân lại hiện đến, bảo:
”Vâng, thiếp là nối tiếp của
vầng trăng mười bốn ngập ngừng. Thiếp là nối
tiếp của vầng trăng mười lăm hân hoan. Giáng Ngân
là kết tinh của vòm trời xanh ngát với dòng Danau ngời
xanh biếc trong giây phút đất trời giao hoan.” Nàng
lại... múa để cho dòng nhạc trong cảm hứng chàng nghệ
sĩ dập dìu nhún nhẩy thành điệu luân vũ bất hủ, để
rồi bản ”Le Beau Danube Bleu”
chào đời. Võ Thị Điềm
Đạm đã nhờ ba nàng tiên nữ giúp Johann Strauss khai sinh
một điệu nhạc phổ thông hơn loại nhạc cổ điển hay
bán cổ điển Tây phương, cho chào đời một ca khúc theo
thể điệu luân vũ mà ngày nay chúng ta có thể thưởng
thức trong thính phòng hay vũ trường. Tác giả nhận
chìm các cô thợ giặt xinh như mộng. Và các cô cũng
không biết tiếng chày đập áo giặt của mình đã lóe
trong óc sáng kiến của chàng Strauss một tia sáng kỳ diệu
để sáng tạo điệu luân vũ như bài hoan ca hạnh phúc
vĩnh cửu”Le Beau Danube Bleu”.
Có vậy độc giả kiều bào chúng ta mới đọc được
một truyện thần thoại diễm lệ dưới ngòi bút lưu
loát của Võ Thị Điềm Đạm. Nhưng riêng với nhạc
sĩ Phạm Duy, trong điệp khúc bài ”Dòng
Sông Xanh”, anh vẫn có hai câu:
”Những cô em tươi môi, ngồi
giặt yếm yên vui - Thả ý thắm mơ hồ chờ gió về
xuôi” để hoài niệm các cô
thợ giặt đã gợi hứng cho chàng nghệ sĩ hào hoa thành
Vienne thuở trước. Và cũng để hoài niệm chàng nên
vào năm 1938, điện ảnh gia Julien Duvivier thực hiện cuốn
phim ”Toute la Ville Danse” (Tất
Cả Thành Phố Khiêu Vũ) với
đôi danh tài Fernand Gravey và Luise Rainier.
Truyện
” Điệu Luân Vũ Bên Bờ Donau”
trình bày cho độc giả chúng ta
cái óc tưởng tượng phì nhiêu và nguồn rung cảm phong
phú bao la của tác giả.
Phan
Thiết là một thị trấn khó quên đối với người bình
dân miền Nam qua thứ nước mắm ngon nhất toàn cõi Việt
Nam, món mắm cá thu độc đáo không thua các món mắm tôm
chà, mắm tôm chua, mắm thái đất Nam Kỳ Lục Tỉnh.
Đối với kẻ yêu nghệ thuật thì địa danh Lầu Ông
Hoàng trở nên bất tử khi đi vào ca khúc ”Hàn Mặc
Tử” của Trần Thiện Thanh nhằm vinh danh cuộc kỳ
ngộ trong đêm trăng thanh giữa thi sĩ Hàn Mặc Tử và
người đẹp Mộng Cầm. Lại còn tiếng hát của
Nhật Trường, Thanh Thúy, Anh Khoa và Trang Mỹ Dung há không
làm ngây ngất bàng hoàng thính giả trên miền Nam Việt
Nam, suốt một giai đoạn lịch sử nước nhà, suốt một
thế hệ trưởng thành vào hai thập niên sáu mươi, bảy
mươi hay sao? Lại còn nữ nghệ sĩ Sáu Ngọc Sương
trên các sân khấu đại ban như Phụng Hảo, Việt Kịch
Năm Châu, Nam Lân, thường thủ vai đào nhì; nhan sắc nồng
mặn, nét lẳng lơ tuyệt xảo, tài diễn xuất trào lộng
đã làm cô nổi bật không kém các nữ nghệ sĩ thủ vai
chính. Và tôi không quên Phan Thiết còn có các nhà
thơ Phan Bá Thụy Dương, Lê Khắc Anh Hào gắn bó tha thiết
với thi ca. Tôi càng không quên nhà báo quân đội
Anh Thuần (Phan Bá Thuần Hậu, bạn tôi) với tấm lòng
bền sắc tươi son trong lập trường chống Cộng, trong
niềm yêu tha thiết nghề phóng viên; anh đã từng thức
những đêm dài tâm sự với tôi cùng các phóng viên quân
đội tại căn cứ Lai Khê vào Mùa Hè Đỏ Lửa
(1971-1972).
Giờ
đây, nơi chốn cùng thôn tuyệt tái ở vùng Champagne trên
đất Pháp, tôi lại được đọc văn chương của Võ Thị
Điềm Đạm, một cây bút phụ nữ gốc người Phan
Thiết. Tôi tưởng chừng đây là một dân Nam kỳ
chính cống với một bút pháp liếng thoắng, xôn xao,
phóng túng. Tập truyện ”Thiên Thanh” là một
hợp tác các bức tranh xã hội, những khía cạnh tâm
tình. Nhưng bất cứ mọi bức tranh nào, mọi khía
cạnh nào cũng được tác giả thu hình một cách chăm
chút kỹ lưỡng: chọn một góc cạnh nổi bật, rọi ánh
sáng sao cho những điều muốn diễn tả nổi bật lên như
các chuyên viên thu hình thạo nghề trong bộ môn điện
ảnh.