văn hữu vườn tao ngộ

Nơi lưu trữ tác phẩm của PBTD và thân hữu. Liên lạc: phanbathuyduong@gmail.com

Wednesday, May 1, 2013

Trần Yên Thảo & Lâm Hoàng Lân ● Con Đường Tơ Lụa - Chương IV


LỘ TUYẾN MỚI PHÍA BẮC CỦA CON ĐƯỜNG TƠ LỤA

Lộ tuyến mới phía Bắc là một trong ba lộ tuyến thông Tây Vực của Con đường Tơ lụa. Tức từ An Tây (Cam Túc) ra Đường Ngọc Môn Quan đi về phía Tây Bắc, vượt bãi Qua Bích đến Y Châu (nay là huyện Cáp Mật Tân Cương), tiếp tục về phía Tây qua Đình Châu, thủ phủ của Bắc Đình Đô Hộ phủ đời Đường (nay là Cát Mộc Tác Nhĩ Tân Cương), vượt Y Ninh (Tân Cương) thẳng tới Toái Diệp Thành. Từ đó vượt vùng Trung Á Tế Á để đến Hy Lạp, La Mã và bờ Địa Trung Hải.

Vùng biên cảnh phía Bắc và Tây Bắc Trung Quốc, từ thời Hán Đường, chiến tranh không bao giờ dứt. Đời Hán chiến tranh với Hung Nô. Những năm khai quốc Đường triều chiến tranh với Đột Quyết. Về sau (cũng đời Đường) chiến tranh với Thổ Phồn, Hồi Hột. Các tiểu quốc này muốn tấn công một nước lớn như Đường triều, trước tiên phải chiếm con đường phía Bắc Thiên Sơn của Tây Vực, tức lộ tuyến mới phía Bắc của Con đường Tơ lụa (vùng Y Châu, Đình Châu và Ô Tôn) làm thuộc địa. Rồi sau mới chinh phục con đường phía Nam Thiên Sơn, tức lộ tuyến Bắc của Con đường Tơ lụa (các tiểu quốc Yên Kỳ, Khưu Từ và Sơ Lạc), những quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp phong phú. Từ đó mới đối địch với Hán Đường. Về phía Hán Đường, muốn củng cố biên phòng, cũng phải đánh bại các tiểu quốc đó và làm chủ vùng Tây Vực.
Từ thời Tây Hán, Hán Vũ Đế đã 2 lần phái Trương Khiên thông sứ Tây Vực (năm 138-119 TCN). Sau nhiều năm lặn lội gian khổ và tù đày, Trương Khiên đã khám phá và mở rộng bang giao với 36 tiểu vương quốc vùng Tây Vực. Quan trọng nhất là các nước Đại Uyển (nay ở vùng Trung Á), Nguyệt Chi, Khang Cư (nay ở giữa hồ Baican và Biển Mặn), Đại Hạ (nay là phía Bắc Apganixtan), Điền Việt (nay là tỉnh Vân Nam), Vu Điền (nay nằm giữa tỉnh Tân Cương) và Ô Tôn.
Trong tấu chương trình lên Hán Vũ Đế, Trương Khiên có viết “Ở Đại Hạ có gậy trúc sản xuất tại Cung Sơn (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên) và hàng tơ lụa sản xuất tại đất Thục (nay là Thành Đô, Tứ Xuyên). Người bản xứ cho biết những thứ đó do thương nhân Thiên Trúc (Ấn Độ) mang tới”. Qua đó Hán Vũ Đế được biết, từ lâu đã có con đường buôn bán giữa Trung Nguyên với các vương quốc phía Tây và Tây Bắc. Ông hạ quyết tâm làm chủ tình hình và mở rộng con đường này. Từ đó về sau, hàng năm Hán Vũ Đế đều phái sứ giả thông sứ Tây Vực, xây dựng quan hệ ngoại giao với các vương quốc vùng này. Sứ giả và các đoàn thương nhân Tây Vực cũng lũ lượt đến Trung Quốc. Hàng tơ lụa của Trung Quốc, ngày càng nhiều, đi qua Tây Vực tới các nước Tây Á rồi đi tiếp sang Âu Châu. Người đời sau gọi đó là “Con đường Tơ lụa”.
Năm Thần Tước thứ 2 Hán Tuyên Đế (năm 60 TCN), Hán triều thiết lập “Tây Vực Đô Hộ Phủ” tại Ô Lũy thành (nay là Công Xã Sách Đại Nhã Dã Vân Câu, thuộc huyện Luân Đài tỉnh Tân Cương), cử Trịnh Cát giữ chức quan đô hộ, có nhiệm vụ bảo hộ từ Thiện Thiện đổ về Tây Nam. Thiện Thiện đời Hán là tiểu vương quốc Thiện Thiện, thủ đô tại Y Tuần (nay là Mễ Lan thuộc huyện Nhược Khương Tân Cương. Không phải huyện Thiện Thiện của Tân Cương ngày nay). Tây Vực Đô Hộ phủ đời Hán chủ yếu kết hợp cộng đồng các vương quốc vùng Tây Vực nhằm đối phó Hung Nô, bảo vệ sự thông suốt của “Con đường Tơ lụa”.
Đến đời Đường, khoảng niên hiệu Trinh Quán Đường Thái Tông (CN 627 – CN 649), quân Đường tiêu diệt nước Cao Xương tại Tây Vực (thuộc quốc của Đột Quyết), thành lập Tây Châu tại đó (nay là Thổ Lỗ Phiên, Tân Cương). Sau đó tiêu diệt luôn 2 nước Yên Kỳ và Khưu Từ. Sơ Lặc và Vu Điền thấy thế đều xin thần phục Đường Triều. Toàn bộ con đường phía Nam Thiên Sơn đều trở thành lãnh thổ hoặc thuộc quốc của nhà Đường. Công Nguyên 640, Đường triều thiết lập An Tây Đô Hộ phủ, thủ phủ đặt tại Giao Hà (nay là Thổ Lỗ Phiên, Tân Cương). Về sau (CN 658) di dời đến thành Khưu Từ (nay là Khố Xa Tân Cương) xưng là An Tây Đại Đô Hộ phủ, cai quản 4 Đô Đốc Phủ: Toái Diệp (sau là Yên Kỳ), Khưu Từ, Sơ Lặc và Vu Điền, xưng An Tây Tứ Trấn. Chức quan cao nhất của Đô Hộ phủ là An Tây Đô Hộ, đến thời Đường Huyền Tông đổi là An Tây Tiết Độ Sứ. Công Nguyên 702, Vũ Tắc Thiên ra lệnh thành lập Bắc Đình Đại Đô Hộ phủ, thủ phủ tại Kim Mãn Thành Đình Châu (nay là Hộ Bảo Tử, phía Bắc Cát Mộc Tác Nhĩ Tân Cương), cai quản toàn bộ con đường Bắc Thiên Sơn, chức quan cao nhất là Bắc Đình Đô Hộ. Đến thời Đường Huyền Tông cũng đổi là Bắc Đình Tiết Độ Sứ.
Lộ tuyến mới phía Bắc của Con đường Tơ lụa, sau khi ra Đường Ngọc Môn Quan đi về phía Tây Bắc, con đường là một bãi qua bích hoang lương không một làn khói bếp, đời Đường gọi là qua bích “Mạc Hạ Diên”. Địa hình toàn bộ của qua bích này được cấu thành từ cát, đá và đá vụn. Theo kết quả những nghiên cứu gần đây, địa tầng của lớp cát đá này có độ dày khá lớn. Từ 10m đến vài trăm mét, thậm chí có nơi không dò được đáy. Khí hậu trên qua bích cực kỳ khô hạn. Không có cỏ nước, không có sinh vật và thực vật. Toàn bộ Qua Bích là một cảnh tượng chết. Nhưng nếu vượt Qua Bích “Mạc Hạ Diên”, hướng về Tây khoảng hơn 300km, hành nhân sẽ đến Y Châu (nay là huyện Cáp Mật Tân Cương), một lục châu có màu xanh sức sống của Tây Vực.
Năm Trinh Quán thứ nhất Đường Thái Tông (CN 627), cao tăng Huyền Trang một mình cùng con ngựa già lén ra Ngọc Môn Quan, đi vào qua bích “Mạc Hạ Diên”. Do bất cẩn, nhà sư làm đổ hết nước trong túi da. Ông đi suốt 4, 5 ngày không tìm được nước uống, cuối cùng vì kiệt sức ngất xỉu trên Qua Bích. May nhờ đang đêm có một làn gió mát thổi tới, ông tỉnh dậy, cùng lúc con ngựa già đánh hơi được hướng có nước, liền phi nhanh tới một dòng suối trong mới cứu sống được Huyền Trang. Trong tiểu thuyết “Tây Du Ký”, Ngô Thừa Ân hư cấu nhân vật Tôn Ngộ Không bảo vệ thầy trò Huyền Trang vượt Qua Bích để đến Y Châu (vùng lục châu có màu xanh sức sống của Tây Vực), chính là Qua Bích “Mạc Hạ Diên” này.
Vào đời Đường, triều đình thường xuyên phái một lực lượng quân đội rất lớn phòng thủ Y Châu, bảo vệ sự thông suốt của “Con đường Tơ lụa”. Nhà thơ Vương Duy có viết bài thất tuyệt trứ danh “Y Châu ca”, diễn đạt nỗi nhớ thương giữa những chiến sĩ phòng ngự Y Châu và thân nhân nơi quê nhà.
伊州歌 王維
清風明月苦相思
蕩子从戎十載余
征人去日殷勤囑
歸雁來时數附书
Âm:
Y CHÂU CA (Vương Duy)
Thanh phong minh nguyệt khổ tương tư,
Đãng tử tòng nhung thập tải dư.
Chinh nhân khứ nhật ân cần chúc,
Qui Nhạn lai thì sổ phụ thư.
Dịch:
BÀI CA ĐẤT Y CHÂU
Trăng gió biên thùy trĩu tương tư,
Theo quân lâm chiến mười năm dư.
Ngày đi chinh khách ân cần bảo,
Nhạn về gởi gắm những phong thư.

Một đêm trăng thanh gió mát nơi biên tái, sĩ binh chạnh nhớ người thân nơi quê nhà. Theo quân chinh chiến hơn 10 năm. Ngày ra đi có hứa hẹn sẽ báo tin bình an theo cánh nhạn xuôi Nam.
Năm Thiên Bảo thứ 13 Đường Huyền Tông (CN 754), nhà thơ Sầm Tham lần thứ 2 đến Tây Vực, nhận chức phán quan tại mạc phủ An Tây Bắc Đình Tiết Độ Sứ của Phong Thường Thanh. Lộ trình khi vượt Qua Bích “Mạc Hạ Diên”, giữa Ngọc Môn Quan và Y Châu, ông đã viết bài ngũ tuyệt “Nhật một Hạ Diên thích tác”.
日没賀延磧作 岑参
沙上見日出
沙上見日没
悔向万里來
功名是何物
Âm:
NHẬT MỘT HẠ DIÊN THÍCH TÁC (Sầm Tham)
Sa thượng kiến nhật xuất,
Sa thượng kiến nhật một.
Hối hướng vạn lý lai,
Công danh thị hà vật.
Dịch:
VIẾT KHI MẶT TRỜI LẶN TRÊN QUA BÍCH MẠC HẠ DIÊN
Theo cát mặt trời mọc,
Theo cát mặt trời khuất.
Vạn dặm đến chi đây,
Công danh là hư thực?
Bài thơ mô tả cảnh tượng khi tác giả vượt Qua Bích “Hạ Diên” tức “Mạc Hạ Diên”. Mỗi ngày chứng kiến mặt trời mọc từ sa mạc rồi cũng lặn xuống sa mạc, thật là đơn điệu. Ta hối hận tại sao phải từ vạn dặm lặn lội tới đây. Vì với bản thân ta, công danh thật chẳng là gì cả.
Từ Y Châu đi về phía Tây, trước mắt là tòa Thiên Sơn nguy nga hùng vĩ. Sau khi tiến thêm khoảng 30km, đến Nam Sơn Khẩu dưới chân Thiên Sơn. Con đường Tơ lụa vượt Thiên Sơn tiến vào thông lộ chính của lộ tuyến mới phía Bắc. Trên núi có miếu Thiên Sơn, một kiến trúc hình vuông được xây bằng đá. Thời cổ đại, các đoàn thương nhân khi qua Thiên Sơn, đều lên miếu dâng hương lễ bái, cầu cho chuyến đi được bình an. Chân núi Thiên Sơn là thảo nguyên bao la xanh mượt. Lộ tuyến mới phía Bắc của Con đường Tơ lụa sau khi vượt Thiên Sơn, men theo phía Bắc thảo nguyên đi về hướng Tây đều là những vùng cỏ nước phong phú. Ngựa và lạc đà là phương tiện chủ yếu của các thương đội và lữ hành thời cổ đại, cho nên cỏ nước là nguyên nhân hưng thịnh của lộ tuyến mới phía Bắc.
Ngọn Thiên Sơn cao ngất, tuyết phủ quanh năm không tan. Sườn núi là những rừng tùng rậm rạp, chân núi thảo mộc xanh tươi. Một cảnh sắc muôn phần tươi đẹp. Trong 6 bài “Tái Hạ Khúc” của nhà thơ Lý Bạch, bài thứ 1 mô tả phong quang cùng sinh hoạt và nguyện vọng của những sĩ binh Đường triều trấn thủ Thiên Sơn.
塞下曲六首其一李白
五月天山雪
無花只有寒
笛中聞折柳
春色未曾看
曉戰隨金鼓
宵眠抱玉鞍
愿將腰下劍
直為斬楼兰
Âm:
TÁI HẠ KHÚC LỤC THỦ (kỳ nhất) Lý Bạch
Ngũ nguyệt Thiên San tuyết,
Vô hoa, chỉ hữu hàn.
Địch trung văn “Chiết Liễu”,
Xuân sắc vị tằng khan.
Hiểu chiến tùy kim cổ,
Tiêu miên bão ngọc an.
Nguyện tương yêu hạ kiếm,
Trực vị trảm Lâu Lan.
Dịch:
BÀI HÁT DƯỚI ẢI (bài 1)
Giữa Hạ tuyết Thiên San,
Không hoa, chỉ rét tràn.
Sáo vang bài “Bẻ Liễu”,
Chưa thấy vẻ Xuân giàn.
Yên ngọc đêm ôm ngủ,
Trống đồng sớm thúc quân.
Ngang lưng xin rút kiếm,
Quyết chém giặc Lâu Lan.
Lê Nguyễn Lưu dịch

Trời đã tháng 5 mà tuyết Thiên Sơn vẫn còn đông cứng. Ở đây làm gì có hoa tươi, chỉ có trời Đông giá rét. Tiếng sáo không biết từ đâu đưa tới khúc nhạc “Chiết Dương Liễu”. Mùa Xuân không bao giờ đến được biên cương. Buổi sớm tiếng trống đồng thúc quân ra trận, đêm tựa đầu trên yên ngựa. Ta chỉ nguyện vung thanh bảo kiếm, như Phó Giới Tử đời Hán chém đầu vua Lâu Lan. Câu cuối bài dùng một điển cố đời Hán “Lâu Lan”, thực tế chỉ chung những nước địch vùng quan ngoại.
Trong phần 4 chương III, chúng tôi có trích dẫn bài “Tái Hạ Khúc” thứ 5 của Lý Bạch, trong đó có những câu “Chiến sĩ ngọa Long Sa” và “Ngọc Quan thù vị nhập”. Long Sa nay là sa mạc Bạch Long tại Tân Cương. Cả Hán Ngọc Môn Quan và Đường Ngọc Môn Quan đều nằm phía Tây Kỳ Liên Sơn và phía Đông Thiên Sơn của Tây Vực. Câu “Ngọc Quan thù vị nhập” (chưa trở vào Ngọc Môn Quan) có nghĩa quân sĩ còn trú đóng phía Tây Ngọc Môn Quan. Cứ theo vị trí trú quân ở quan ngoại này thì câu “Ngũ nguyệt Thiên Sơn tuyết” trong bài 1 “Tái Hạ Khúc” vừa trích dẫn, phải hiểu là Thiên Sơn của Tây Vực, chứ không phải Thiên Sơn tên gọi thứ 2 của Kỳ Liên Sơn.
Dãy Thiên Sơn từ Đông sang Tây dài 2.500km, Nam lên Bắc rộng từ 100 đến 400km, phân thành Tây Thiên Sơn thuộc Liên Bang Nga, Trung và Đông Thiên Sơn thuộc Trung Quốc. Trung và Đông Thiên Sơn dài khoảng 1.700km, có tổng diện tích khoảng 24,4 vạn km2 do 20 dãy núi chạy song song hướng Đông Tây, trong đó có nhiều bồn địa hình quả ấu giữa núi.
Về khí hậu, Thiên Sơn kéo dài đến Trung bộ Tây Vực (nay là tỉnh Tân Cương) như một mái che khổng lồ, phân ra khu hoang mạc ôn đới là bồn địa Hoài Khát Nhĩ và khu hoang mạc ôn đới ấm là bồn địa Tháp Lý Mộc thành ra 2 vùng Nam Bắc và là nơi phát nguyên của trên 200 con sông. Bắc Thiên Sơn là địa bàn du mục, Nam Thiên Sơn là địa bàn nông nghiệp. Vì các dân tộc du mục Bắc Thiên Sơn không cư trú chỗ nào nhất định, đâu có cỏ thì ở, di chuyển luôn. Cho nên những cộng đồng dân cư cố định của Thiên Sơn chủ yếu là những dân tộc nông nghiệp ốc đảo Nam Thiên Sơn.
Khu nông nghiệp ốc đảo là khu vực cô lập tự phong bế, rất có lợi cho việc phát triển sản xuất trong khu vực. Nhưng theo qui luật phát triển sản xuất cùng với nhịp độ tăng dân số, khu vực này càng trở ngại cho việc mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống. Để khắc phục những trở ngại này, nhân dân nông nghiệp ốc đảo tăng cường việc đi lại giao lưu với nhau, nhất là với Trung Nguyên. Những đội thương nhân Mông Cổ thường xuyên tiếp xúc đã đem lại phồn vinh khiến bộ mặt xã hội ốc đảo thay đổi hẳn. Từ xã hội nông nghiệp đơn thuần biến thành xã hội nông thương nghiệp đặc thù. Hơn nữa, còn giao lưu với các dân tộc Đông Tây, tiếp thu khá nhiều văn hóa bên ngoài làm cho bộ mặt văn hóa ốc đảo ngày càng trở nên phong phú và đa dạng.
Các ốc đảo ven Nam Bắc Thiên Sơn trở thành một loại bến cảng, hình thành 2 dây chuyền Đông Tây nối liền, cộng với đường mậu dịch Đông Tây ven sa mạc Tháp Khắc Lạp Mã Can, làm thành 3 con đường buôn bán. Đó là “Con đường Tơ lụa” mà đoạn đường Nam Bắc Thiên Sơn là chủ yếu.
Từ trước thời Tây Hán, Hậu Vương Đình đã xây dựng “Kim Mãn Thành” tại Xa Sư (nay là huyện Cát Mộc Tát Nhĩ, Tân Cương). Thời Sơ Đường thành lập Đình Châu, thủ phủ đặt tại Kim Mãn Thành. Thời Võ Tắc Thiên, Đình Châu trở thành Bắc Đình Đô Hộ Phủ, thủ phủ vẫn là Kim Mãn Thành, cai quản toàn bộ quyền hành chính quân sự của con đường Bắc Thiên Sơn. Những năm khai quốc Đường triều xã hội ổn định, kinh tế phát đạt, Kim Mãn Thành là một trong 3 đô thị tơ lụa của Tây Vực (2 đô thị kia là Tây Châu và Vu Điền), nghề dệt tơ lụa tại 3 nơi này phát triển cực thịnh.
Kim Mãn Thành nay là huyện Cát Mộc Tát Nhĩ của tỉnh Tân Cương. Phiên âm từ tiếng Đột Quyết “Cát Mộc” là “Kim Mãn”, “Tát Nhĩ” là “Thành”. Ngày nay tại phía Bắc huyện thành Cát Mộc Tát Nhĩ khoảng 10km, còn di tích của “Hộ Bảo Tử Phá Thành”. Đó là nền xưa của Bắc Đình Đô Hộ phủ đời Đường. Còn sót những mẫu tường thành cao 10m và gạch ngói đổ nát. Riêng những kiến trúc lớn như Phật tháp vẫn còn nhận ra được.
Phía Bắc Thiên Sơn là A Nhĩ Thái Sơn, cực Bắc nữa là Yên Nhiên Sơn (nay là Hàng Aùi Sơn), đều là những địa danh thường xuất hiện trong thơ Biên Tái đời Đường. “A Nhĩ Thái” là tiếng Đột Quyết có nghĩa là “Kim”, nên A Nhĩ Thái Sơn cũng còn gọi là “Kim Sơn”. Bài thất tuyệt “Thu Khuê Tứ” của nhà thơ Đường Trương Trọng Tố có đề cập địa danh này.
秋閨思 張仲素
碧窗斜月蔼深暉
愁听寒螿泪濕衣
梦里分明見关塞
不知何路向金微
Âm:
THU KHUÊ TỨ Trương Trọng Tố
Bích song tà nguyệt ái thâm huy,
Sầu thính Hàn Tương lệ thấp y.
Mộng lý phân minh kiến quan tái,
Bất tri hà lộ hướng Kim Vi.
Dịch:
NỖI NHỚ ĐÊM THU NƠI KHUÊ PHÒNG
Trăng khuya vằng vặc qua song cửa,
Áo đằm nước mắt oán tiếng ve.
Rõ ràng mộng thấy ra quan ải,
Đường nào đưa thiếp tới Kim Vi.

Bài thơ viết về tình và cảnh một đêm Thu. Thiếu phụ tưởng nhớ chồng đang chinh chiến ngoài biên tái. Một đêm sâu tỉnh mộng, trăng tà chiếu qua song cửa sáng ngập khuê phòng. Nàng không ngủ được nữa, tiếng kêu không ngừng của những con Hàn Tương (Hàn Tương là một loài ve nhỏ chỉ kêu vào cuối Thu) khơi dậy lòng sầu, nước mắt đẩm cả tay áo. Lúc trong mộng nàng thấy rõ mình đang ở quan tái. Nhưng con đường nào có thể đưa tới Kim Vi Sơn (tức A Nhĩ Thái Sơn) nơi trấn thủ của chồng. Bài thơ xử dụng đảo ý rất tuyệt, tả cảnh mộng tỉnh rồi sau mới tả cảnh trong mộng.
[Còn tiếp]