Có
tiếng chuông điện thoại reo vang ở dưới nhà, làm cho
tôi giật mình choàng tỉnh giấc. Tôi vội vàng ngồi bật
dạy, chẳng khác nào như chiếc lò xo, không hơn, không
kém. Bước ra khỏi chiếc giường ngủ, tôi mở nhẹ
cánh cửa, hấp tấp, hối hả tiến thẳng xuống cầu
thang. Bên ngoài, bầu trời vẫn xám xịt, nặng nề, đậu
thật thấp và chẳng có chút ánh sáng nào, le lói, báo
hiệu ở cuối đường hầm. Cơn mưa lại ồ ạt, bất
thần kéo tới, gầm thét, giận dữ, trút xuống như thác
đổ. Mưa liên tiếp suốt cả tuần lễ nay. Ngày nào
trời cũng mưa gió, bão bùng. Mưa quét lên bộ mặt thành
phố bằng một lớp sơn dầu ảm đạm, u tối và thê
lương lạ thường. Nhiều ngã tư bị mất điện trầm
trọng. Hệ thống đèn báo trở nên vô dụng, đồng thời
gây trở ngại cho việc giao thông rất nhiều. Theo dự
báo thời tiết cho biết, thì miền Nam Cali. còn phải gánh
chịu cơn giông bão tệ hại này thêm dăm ba ngày nữa!
Mưa gợi lên ở trong tôi cả nỗi nhớ nhung vời vợi,
xao xuyến, buồn da diết. Tôi ném tầm mắt nhìn sang phía
phòng khách. Căn nhà trở nên vắng vẻ và trống trải
lạ thường. Cả nhà tôi đều ra đi ngay từ khi còn sáng
sớm. Hôm nay là sinh nhật của đứa cháu gái tôi ở
dưới San Bernadino. Tôi đổi ý, không đi vào giờ chót!
Nhà tôi cùng mấy đứa con đều tỏ vẻ khó chịu về sự
thay đổi bất thường này. Tôi gượng gạo giải thích:
“Tự
nhiên, sáng nay thức dạy thấy trong người không được
khỏe! Nói dùm với tụi nó, tôi thành thật cáo lỗi.”
Nhà
tôi cằn nhằn:
“Nếu
không muốn đi, thì tại sao không nói với chúng nó ngay
từ ngày hôm qua! Đằng này, cứ hứa lấy, hứa để, là
chú sẽ đi và cuối cùng thì lại đổi ý. Ông làm như
vậy thì coi có được không! Mình là người lớn thì
phải nói đâu ra đấy! Một là một! Hai là hai! Chứ
không có cái kiểu ấm ớ hội tề được.”
Tôi
lẳng lặng không nói. Tôi không hiểu, tại sao, dạo này,
tính tình của tôi đột nhiên thấy thay đổi lạ thường!
Những thay đổi thấy rõ! Trước đây, mọi chuyện tôi
đều tỏ ra dứt khoát, chứ đâu có thái độ lừng
khừng, bất thường như hiện nay! Phải chăng! Con người
ta đang bước vào cái tuổi hoàng hôn, xế bóng, thì tự
nhiên thấy thân thể mình nặng nề, chậm chạp hẳn đi,
và sức khỏe thì bắt đầu có chiều hướng lụn bại,
đi xuống, yếu dần, tàn tạ theo thời gian. Cho đến giờ
phút này, tôi mới cảm thấy lời bố tôi nói trước kia
rất là chí lý, khi ông đang bước vào cái tuổi thất
thập cổ lai hy:
“Về
già, thì người ta đâu có còn bén nhạy, sáng suốt như
hồi còn trai trẻ được! Đầu óc thì càng ngày càng
trở nên lú lẫm và tính tình thì lại hay thay đổi bất
thường. Cứ hơi một tý là giận hờn. Động một chút
là tủi thân. Vì thế, cha ông mình thường bảo: Không
có ai dở hơi như người già, mà người già thì chẳng
khác nào như trẻ con. Thế mới lạ chứ! Câu nói ấy
ngẫm nghĩ lại, thấy chẳng sai tý nào!”
Tiếng
chuông điện thoại lại réo lên dồn dập như thúc dục,
lôi kéo tôi về với thực tại. Tôi nhấc chiếc ống
nghe đặt lên tai:
“Xin
lỗi! Tôi được tiếp chuyện với ai ở đầu dây vậy!”
Giọng
nói quen thuộc của ông bạn hàng xóm vang lên lồng lộng
ở trong máy:
“Tôi
là Thanh đây! Hôm nay anh có bận gì không!”
“Bận!
Thì có bận! Nhưng tôi từ chối rồi. Có chuyện gì
không anh!”
“Tôi
tính chiều nay, mời anh cùng anh Thái sang nhà tôi chơi.
Lâu quá rồi, chúng ta chưa ngồi lại với nhau! Vả lại,
suốt cả tuần lễ nay, trời cứ mưa gió liên miên, buồn
quá! Ngày nào nhà tôi cũng dục: Sao không mời mấy ông
ấy sang nhà mình chơi! Tôi làm vài món cho các ông lai
rai với nhau, để chuyện trò, tán gẫu cho đỡ buồn.
Luôn tiện, ông trả lại cho người ta cuốn sách. Chứ
tôi thấy ông mượn đến gần cả tháng nay rồi.”
“Sách
gì vậy!”
“Anh
quên rồi hay sao!”
“Thú
thật! Tôi chẳng nhớ gì cả!”
“Rõ
thật cái anh này! Cuốn Nhục Vinh, tuyển tập của nhà
văn Phạm quốc Bảo, mà trước đây tôi đã mượn của
anh đấy. Anh nhớ ra chưa!”
“À!
Anh không nhắc, tôi cũng quên khuấy đi mất! Cuốn ấy
ông ta tặng tôi đến cả năm rồi. Đọc xong, tôi nhét
nó vào kệ sách. Tứ đó, tôi chẳng bao giờ để ý, ngó
ngàng gì tới nó nữa! Mặc dù, trước đây, tôi đã hứa
với ông ta, thể nào tôi cũng viết một vài cảm nghĩ về
tuyển tập nói trên. Cũng may, có anh nhắc! Nếu không!
Thì có lẽ suốt đời này, tôi sẽ cho nó đi vào quên
lãng. Như vậy, thì hóa ra, tôi sẽ mang một cái tội rất
lớn đối với ông ấy. Tôi không hiểu! Tại sao dạo
này tôi hay quên quá anh ạ! Xảy một tý là tôi quên
phéng đi mất. Ai đời, nhiều lúc, rõ ràng tôi cầm xâu
chìa khóa ở trên tay, hoặc bất cứ vật thể nào khác,
mà tôi cứ ngơ ngác, xục xạo, đi tìm nó cho bằng được.
Đến khi giật mình, tỉnh lại, thì mới đớ mắt ra.
Lắm lúc, tôi còn quên cả tắt bếp nữa anh ạ! Quên cả
khóa cửa ra vào! Làm cho mấy đứa con tôi phải kêu trời
lên. Ngoài cái tính hay quên ra, lại còn kèm thêm cái
thói xấu, là gàn nữa chứ! Có phải, tại cái tuổi của
mình già không anh! Có lẽ là như thế! Tôi nghĩ, mặc
dù không nói ra, nhưng thể nào ông Bảo cũng buồn tôi
lắm! Đôi khi, ông ấy còn trách thầm tôi nữa là đằng
khác! Tiện đây, tôi hỏi thật anh: Anh đã đọc xong
cuốn sách ấy chưa! Nếu chưa! Anh cứ giữ lấy để mà
đọc. Lúc nào trả cũng được.”
“Tôi
đọc xong hết từ đầu đến cuối. Chẳng xót bài nào
cả! Vả lại, cuốn sách cũng đâu có dày gì cho lắm!”
“Thế
tôi hỏi thật, anh có cảm nghĩ gì về tác phẩm nói
trên!”
Anh
bạn tôi xuống giọng trầm trầm:
“Theo
tôi, thì đây là cuốn sách tuy nhỏ, nhưng nó hàm chứa
giá trị không nhỏ đâu anh! Nó bắt người đọc phải
suy nghĩ! Phải nghiền ngẫm từng câu nói một! Tôi
không biết tác giả là ai! Là người nào! Và cũng chưa
một lần găp mặt ông ta ở quá khứ. Nhưng qua cung cách
của các bài viết ở trong đấy, tôi đã nhận chân ra
được cái ý nghĩa thâm thúy, sâu sắc về hai chữ
“Vinh”và chữ“Nhục.” Nỗi Vinh Nhục của
một đời người. Của ngay chính người viết. Của
chúng ta, và của biết bao nhiêu thế hệ khác nữa! Của
cả một dân tộc đọa đầy, chồng chất với biết bao
nhiêu nỗi oan khiên, thống khổ, tang tóc, trải dài trên
suốt chặng đường nghiệt ngã, khói lửa, đen tối và
tồi tệ nhất của lịch sử đất nước. Đấy là nhận
xét riêng của cá nhân tôi. Ngoài ra, tác giả còn trải
rộng cả tấm lòng của ông, đến với bạn bè, với
bằng hữu, hiện đang còn sống ở bên đây, cũng như ở
quê nhà, hoặc những người đã ra đi, khuất mặt, từ
giã khỏi đời sống phù phiếm này, để đi về với thế
giới của hư vô, của trầm hương, yên tĩnh, của nghìn
thu vĩnh biệt. Bằng giọng văn tưởng chừng như bình
dị, nhưng ông đã gói ghém, chất chứa ở trong đấy
những ý tưởng thật sâu sắc, cùng những nhận định
thiết thực về đời sống tha hương ở bên đây, về
cộng đồng tỵ nạn của người Việt. Những khắc
khoải, trăn trở về chặng đường đang tới ở trước
mặt, cùng những đắng cay, chua chát, ê chề, chồng chất
ở sau lưng. Tất cả đều được ông phơi bày rõ nét
một cách thật trung thực, thể hiện ở trong đó. Ở
đây, tôi mê nhất là bài thơ mở đề của tác giả.
Bài thơ có tên “ Bay lên đi, chim Lạc.”
Chúng ta hãy thử nhìn cho kỹ, nhìn xoáy vào chữ Lạc, và
chữ ấy đã được tác giả tô vẽ, nắn nót thành một
kiểu chữ hoa rất trân trọng. Nói như thế, thì chúng
ta có thể hiểu ngầm được, cái ý chính của tác giả
muốn nói gì!
hiện
diện tự bao giờ
trong
bức vẽ
đời
người
bỗng
nhảy ra
vẫy
vùng
nhục
vinh
chỉ
có kết quả của nỗi nhục
là
niềm vinh
thì
mới nhẹ bước
thênh
thang
trường
tồn
trong
cuộc sống
rồi
sau đó
biến
vào huyền thoại
như
trước khi vào đời
đã
là huyền thoại
“Thú
thật, tôi đọc đi, đọc lại bài thơ này rất nhiều
lần. Bài thơ tuy ngắn, nhưng đã cô đọng ở trong tôi
những suy tư, những thao thức về từng ý nghĩa sắc bén,
cốt lõi của nó.”
“Cảm
ơn anh đã có vài nhận định phổ quát về cuốn sách
của ông ta. Nhờ anh, mà đã tác động cho tôi niềm cảm
hứng bất chợt, để từ đó, tôi sẽ viết đôi dòng
cảm nghĩ về tác giả, cùng vài ý nghĩ hạn hẹp, thô
thiển, mộc mạc về tác phẩm này. Tôi sẽ viết lập
tức ngay bây giờ. Viết! Chứ để lâu rồi lại quên!
Chiều nay. Y hẹn. Tôi sẽ qua bên anh. Chúng ta sẽ nói
với nhau nhiều hơn. Bây giờ tôi xin tạm ngưng và buông
máy để viết. Nếu không viết ngay tức thì, tôi e rằng,
luồng tư tưởng sẽ tiêu tan, bay đi mất. Bây giờ, cứ
mỗi lần lôi bút ra để chuẩn bị viết, thì là cả một
vấn đề! Chứ đâu có dễ dàng như trước kia! Nhiều
khi tôi lấy giấy bút ra, để sẵn sàng đâu vào đấy.
Suy nghĩ chán chê, nát óc đến cả tiếng đồng hồ, mà
tôi vẫn không có cách nào lấp đầy hết được trang
giấy! Chán nản, tôi tức bực, xé toạc ra, vo tròn, rồi
ném thẳng vào thùng rác, với nỗi ngao ngán, thất vọng,
ngổn ngang ở bên trong. Thì ra! Bao nhiêu nguồn cảm hứng
đều cạn sạch hết từ lâu rồi! Cạn xuống đến tận
đáy! Cạn đến nỗi chẳng còn xót lại chút cặn nào ở
tim não.”
“Thôi
được! Chiều! Nhớ qua nhà tôi! Nghe anh!”
“Qua
chứ! Đâu có thể thiếu được! Ở đây, chúng mình
quanh đi, quẩn lại, cũng chỉ có ba người. Từ đầu
mùa đến giờ, cũng chỉ có anh, tôi và anh Thái! Chứ
đâu có ai khác nữa! Kể ra thì cũng có, chứ không phải
là không! Nhưng cứ thẳng thừng ra mà nói, thì phải hợp
gu với nhau mới bền. Mà bộ ba thì chẳng khác nào như
chiếc kiềng có ba chân. Giả thử, nếu mất đi một
bên, thì làm sao mà có thể đứng vững được.”
Tôi
buông máy. Tự nhiên, tôi cảm thấy thèm ly cà phê. Tôi
chạy lại mở tủ, lấy chiếc ly thủy tinh mà tôi thường
dùng, pha vội ly cà phê còn nóng hổi, bốc khói. Tôi
bước đi, nâng ly cà phê trên tay, mà lòng cảm thấy ngây
ngất, lâng lâng, nhẹ nhàng bước lần theo cầu thang, rồi
trực chỉ tiến thẳng về phía phòng mình.
Vào
phòng, tôi loay hoay bật cái công tắc điện gắn ở gần
đấy. Ánh sáng chợt bừng lên, tỏa rộng cả căn phòng
ngủ. Tôi ngồi vào bàn viết, sửa soạn bút mực đâu
vào đấy. Bằng động tác thật nhẹ nhàng, khoan thai,
tôi ung dung nâng ly cà phê đặt lên môi, nhắp một hớp
nhỏ. Luồng hơi ấm từ từ thấm vào cơ thể, đem theo
cái cảm giác thoải mái, lâng lâng và sung sướng hơn bao
giờ hết. Tôi đưa tay bóp nhẹ lên trán, cố nặn óc
suy nghĩ, ráng tìm câu mở đề để làm chuẩn cho bài
viết này. Câu mở đề ấy đã đến với tôi thật đúng
lúc, thật bất ngờ, và tôi cúi xuống, cặm cụi, hí
hoáy, say sưa bắt đầu viết.
Tôi
viết những dòng chữ này cho anh! Những dòng chữ mộc
mạc, thô thiển. Những dòng chữ mà khởi đầu, là một
lời xin lỗi về sự chậm trễ, đáng trách này. Đáng
lý ra, tôi phải viết nó từ lâu! Nhưng! Cũng chỉ vì
cái bản tính lừng khừng, lười biếng! Cũng chỉ vì
cái tật xấu là hay quên! Chính vì thế, mà mãi cho đến
ngày hôm nay, tôi mới chợt nhớ ra, rồi đặt bút viết
những giòng chữ muộn màng này gửi đến anh. Tự dưng,
tôi chợt nhớ đến buổi sáng ngày chủ nhật. Một buổi
sáng tại tiệm cà phê ồn ào, đông khách, nằm ngay trên
đường Broohurst, thuộc thành phố Wesminster. Tiệm cà phê
mà hầu như tuần nào, anh cũng có mặt đều đặn, với
bạn bè, với bằng hữu. Trước khi ra về, anh khoát tay
nói với tôi:
“Anh
đợi tôi một chút!”
Anh
bước vội ra xe. Lát sau, anh trở lại với cuốn sách
cầm ở trên tay:
“Gởi
anh. Chỗ bạn bè quen biết với nhau.”
Tôi
cảm động, đỡ nhẹ cuốn sách trong tay anh:
“Đây
là lần thứ hai tôi nợ anh! Món nợ mà tôi không bao giờ
trả được! Năm nào anh cũng tặng tôi. Năm nào anh cũng
cho ra đời một đứa con tinh thần. Ngược lại, thì tôi
chẳng có gì để biếu lại anh! Tôi áy náy vô cùng.”
Anh
điềm đạm, từ tốn:
“Có
gì đâu! Anh cứ nghĩ thế! Viết cho vui vậy mà! Viết
để giải tỏa những ấm ức, những suy nghĩ, ray rứt ở
nội tâm. Chứ, tôi đâu có mục đích to lớn nào khác!”
Tôi
biết anh vào khoảng gần tám năm nay. Nếu tôi nhớ không
lầm, thì hôm đó lại rơi đúng vào ngày chủ nhật, tại
phòng sinh hoạt của nhật báo Viễn Đông, nằm ngay trên
đường Moran, do nguyệt san Khởi Hành tổi chức, nhằm
mục đích vinh danh và tuyên bố giải văn chương toàn sự
nghiệp cho nhà văn Nguyễn thụy Long (hiện đang còn ở
trong nước), với những đóng góp đáng kể của ông cho
nền văn học Việt Nam. Sau khi kết thúc, chúng tôi kéo
nhau đi ăn, rồi tạt vào tiệm cà phê nằm ngay trên đường
Bolsa. Trong số chúng tôi hôm đó, gồm có: Phan Diên,
Đặng Hiền, anh, Vương Nguyện, Phan Bá Thụy Dương và
tôi. Lần đầu tiên gặp anh, qua lời giới thiệu của
nhà thơ Đặng Hiền, chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ tạp
chí Hợp Lưu. Một tạp chí thuần túy về văn học, nghệ
thuật tại hải ngoại. Từ đó, thỉnh thoảng có dịp,
tôi lại tạt ngang qua tòa soạn nhật báo Người Việt để
thăm anh. Nói tới anh, trước tiên là phải nói đến nụ
cười. Lúc nào tôi cũng thấy anh nở nụ cười ở trên
môi. Cái nụ cười biểu lộ cho sự hiền hòa, cởi mở
và dễ mến. Anh xuất thân từ Đại Học Văn Khoa (môn
Triết Học Đông Phương) ở Sài Gòn trước đây. Anh là
nhà mô phạm. Một nhà giáo mẫu mực, tận tụy với
nghề nghiệp. Cuộc đời anh gắn bó với bút mực, bảng
đen, phấn trắng và lớp học. Sau biến cố tang thương
của lịch sử đất nước. Anh hòa chung số phận với
biết bao nhiêu quân, cán, chính của chế độ Việt Nam
Cộng Hòa ở miền Nam. Anh bị cầm tù. Bị đầy ải ra
đến tận vùng thâm sơn, cùng cốc ngoài miền Bắc. Bị
sỉ nhục. Bị đói rét. Bị chứng bệnh nan y, ngặt
nghèo, quái ác, dày xéo lên thân thể anh, ròng rã suốt
từ năm này sang năm khác. Đứng trước tình trạng bi
đát đó, anh được thả ra, trở về đoàn tụ với gia
đình. Sau thời gian chữa chạy, anh hồi phục, sống lây
lất, vất vưởng giữa xã hội đầy nghi kỵ và mâu
thuẫn. Luân lý, đạo đức bị đảo lộn, suy đồi. Hệ
thống giáo dục thì đặt nặng về tư tưởng, chính trị,
hơn là khía cạnh văn hóa và chuyên môn. Trong khi đó,
nhà nước lại theo đuổi chánh sách thắt chặt kinh tế,
khiến cho đời sống dân chúng trở nên khó khăn, nghẹt
thở. Ai nấy đều tỏ ra ngán ngẫm, không còn thiết tha
gì đến hai chữ hòa bình! Hòa bình có, nhưng tự do thì
không! Hòa bình trong lam lũ, cơ cực. Hòa bình trong chiếc
bánh vẽ về tương lai chói ngời, chập chờn ở phía
trước. Tương lai đó chẳng bao giờ có thực! Hình ảnh
mục nát, tả tơi của một xã hội miền Bắc, sau năm
1954, với những vết thương lở loét, rướm máu, cứ lởn
vởn, ám ảnh thường xuyên ở trong anh! Về thân phận
bọt bèo của tầng lớp trí thức, cùng cái giá quá đắt
của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm phải gánh chịu. Từ đó,
nó trở thành động cơ mãnh liệt, thôi thúc anh đi tới
quyết định dứt khoát, là phải ra đi! Chỉ có ra đi là
thượng sách. Cuối cùng, anh đã đến được bến bờ
của tự do trong chuyến mạo hiểm đầy gian nan, thử
thách. Anh đặt chân xuống đất Mỹ vào năm 1982. Giã
từ nghề giáo chức, anh chuyển hướng, bước sang lãnh
vực thông tin và báo chí. Gắn bó với nhật báo Người
Việt trên ba chục năm nay và hiện giờ anh vẫn còn đang
tiếp tục. Ngoài công việc thường nhật, anh còn chú
tâm đến công việc sáng tác. Với ba tác phẩm được
xuất bản ở trong nước, cộng thêm mười bảy đứa con
ra mắt tại hải ngoại, đã nói lên sự đóng góp không
nhỏ vào dòng chảy của nên văn học ở tại nơi này.
Ngoài ra, anh còn thường xuyên lui tới để sinh hoạt với
những bạn trẻ đang sinh sống ở Hoa Kỳ, cũng như ở
khắp mọi nơi trên thế giới. Anh cùng người bạn chí
thân là bác sĩ Phạm gia Cổn, đã có mặt trong hội nghị
Tuổi Trẻ Việt Nam Trên Thế Giới Kỳ 4 (The 4 th
International Vietnamese Youth Conference) do mạng lưới Tuổi
Trẻ Lên Đường (Lên Đường International Youth Network) và
Tổng Hội Sinh Viên tại Úc Châu (Federal Vietnamese Students
Association of Australia) phối hợp trực tiếp và đứng ra
tổ chức (đã diễn ra trong năm ngày, từ 27 đến 31 tháng
12 năm 2005) tại trung tâm thành phố Sydney, với sự tham
dự của 500 thành viên nồng cốt, đến từ 17 quốc gia
khắp nơi trên thế giới. Anh cùng bác sĩ Cổn được đề
cử trong vai trò thuyết trình viên ở tại đại hội này.
Với anh: Tuổi trẻ là rường cột, là tương lai của
đất nước. Điều đó rất đúng! Vì thế! Anh muốn
thổi vào giới trẻ một luồng sinh khí mới, về tình tự
của dân tộc, về tình yêu quê hương và giống nòi. Về
cội nguồn. Về các trang sử oanh liệt của tổ tiên ta
trong công cuôc dựng nước và giữ nước. Về vai trò,
bổn phận và nghĩa vụ của tuổi trẻ đối với tổ
quốc và dân tộc, đồng thời anh muốn gắn bó họ vào
với mảnh đất thân yêu hình chữ S ấy.
“Nói
dại! Nếu cuộc sống lưu vong còn kéo dài thêm vài chục
năm nữa! Đến khi ấy, thế hệ chúng mình đã nằm
xuống, ra đi. Tôi nghĩ rằng: Có lẽ cái hình thể của
đất nước mình, họ cũng không biết nó nằm theo mẫu
tự nào của hai mươi bốn chữ cái!”
Đấy
là câu nói mà anh thường thổ lộ với bạn bè như thế.
Nhục
Vinh là tác phẩm mà anh đã cho ra mắt tại miền Nam Cali.
vào năm 2010. Đây là tuyển tập gồm mười bài viết
được gói ghém, đóng khung ở trong đấy. Mở đầu là
bài thơ “Bay lên đi, chim Lạc.” Tiếp theo
là câu chuyện Nhục Vinh, và cũng là chủ đề chính cho
tập truyện này. Đặc biệt nhất, là từ đầu đến
cuối, anh hoàn toàn xử dụng bằng lối hành văn đối
thoại, giữa hai người bạn cũ lâu ngày, gặp lại nhau
trên xứ người. Họ gặp nhau trong dịp tình cờ. Một
người đã sinh sống trên đất nước này từ năm 1975.
Còn người kia bị kẹt lại, đi tù và sang đây muộn
hơn. Câu chuyện được đặt ra, là cái căn bệnh kinh
niên, thường xảy ra trong cộng đồng người Việt tỵ
nạn ở khắp nơi trên thế giới (chẳng riêng gì Hoa Kỳ).
Đó là cái tính hay bêu xấu lẫn nhau. Nguyên nhân dẫn
đến tình trạng kể trên, bắt nguồn từ sự uất ức.
Những mặc cảm thua thiệt, cùng các sự dồn nén trong
những năm tháng dài ngụp lặn trong nhà tù CS. Chính vì
những mặc cảm nặng nề đó, mọi người vẫn chưa sát
cánh lại gần với nhau, ngõ hầu tạo một cái giây xích
đoàn kết trong công cuộc đấu tranh cho dân chủ, tự do
và nhân quyền cho người dân ở trong nước.
Hầu
hết trong những cuốn hồi ký viết về đời sông tù
đầy, người ta thường đề cập đến sự thiếu thốn
về vật chất, thuốc men, cho đến tinh thần. Về bệnh
tật, cùng sự ngược đãi dã man của các tên cai tù hung
hãn, độc ác. Nhưng ngược lại, anh lại đề cập đến
thành quả của 20 năm phát triển ở miền Nam, thể hiện
trong các mặt, văn hóa, xã hội, chính trị và kinh tế.
Ngay từ mấy năm đầu, anh cũng bị dày vò, ngụp lặn
trong cái mặc cảm ô nhục! Nhưng dần dần tâm trí anh
tỉnh táo trở lại, đồng thời anh cảm thấy hãnh diện
về những thành tựu mà miền Nam đã đạt được trong
20 năm qua. Mặc dù sống trong thời chiến tranh, nhưng
nhân dân miền Nam đã đạt tới được những thành tích
đáng kể sau đây: Xây dựng thể chế dân chủ rõ rệt.
Một xã hội khá lành mạnh, có kỷ cương, trật tự.
Một nền giáo dục nhân bản, dựa trên nền tảng luân
lý và đạo đức của con người. Có một điểm mấu
chốt mà tôi rất đồng ý với anh, là chính quyền miền
Nam lúc bấy giờ, đã không trang bị cho toàn dân số vốn
liếng căn bản về thực chất của chế độ Cộng Sản,
cùng mọi hành động tàn nhẫn, dã man của họ. Chính
cái thành quả nói trên của miền Nam, đã chứng tỏ sự
chênh lệch, khác biệt giữa miền Nam và miền Bắc. Vì
thế, sau khi đặt chân đến Sài Gòn, người nữ thanh
niên xung phong đã phải ngồi phệt xuống vỉa hè, ôm mặt
khóc nức nở, chẳng khác nào như một đứa trẻ. Người
ấy không ai khác hơn, chính là nhà văn Dương Thu Hương.
Hiện nay, bà đang sống ở bên Pháp, và đã nói lên: Bà
bị lường gạt, bị ru ngủ, đầu độc, bởi cái loa
tuyên truyền hết sức là tinh vi của chế độ miền Bắc.
Gần đây nhất, trước các vụ tai tiếng xấu xa, bỉ
ổi, nằm ngay trong hàng ngũ giáo chức, đã khiên cho ông
cựu trung tá phải thốt lên, đại ý là ông khao khát,
muốn có nền giáo dục lành mạnh, nhân bản như chế độ
miên Nam trước đây.
Trong
câu chuyện “Mắt Phật,” anh đã đưa ra nhận
định về ngôi chùa trong làng xã Việt Nam:
“Chùa
là đơn vị sinh hoạt của dân làng: Chùa là nơi cung cấp
thêm điều kiện sống cho những ai trong làng muốn chuyên
chú vào việc tu tâm dưỡng tính. Ngoài đình miếu nhà
thờ,thì chùa cũng là nơi dân làng tụ tập vào những
dịp lễ Tết…trang 55”
Ngoài
ra, anh còn đề cập đến ba nhận xét của từng người
về ánh mắt của đức Phật:
Người
thứ nhất cho rằng:
“Tôi
thấy mắt ngài nhìn xuống tôi. Ngài đang rủ lòng
thương, vì tôi còn đang mê muội, kẹp hòi…trang 59.”
Còn
người thứ hai:
“Tôi
thì tôi nhận ra từ ánh mắt của ngài dường như ngầm
ý bảo là tôi hãy nhìn lên: Có khoảng trời xanh bao la
ngay đằng sau đầu ngài đấy. Một bầu trời khoảng
khoát dễ nâng tâm hồn mình lên với miền cao xa, những
khát vọng hướng thiện… trang 60.”
Người
thứ ba thì đi sâu vào chi tiết hơn:
“Ngài
quả thật đã trải nghiệm trong đời sống của một con
người bình thường, trước khi nỗ lực tu hành thành
Phật. Như chúng ta đang sống đây. Ngài chỉ khác tất
cả chúng ta ở chỗ ngài đã chứng đắc thành công khi
tìm thấy một triết lý sống ‘người nhất’. Ngài đã
sống theo triết lý ấy, và ngài đã dạy chúng ta triết
lý ấy. Và trên 25 thế kỷ đã qua rồi mà chưa có ai đó
tìm ra thêm một triết lý sống nào khác khả dĩ thay thế
được. trang 60”
Đúng
y như lời của ông bạn hàng xóm cùng dãy với tôi. Đối
với bạn bè: Lúc nào anh cũng tỏ ra trân trọng. Trân
trọng ngay trong các bài viết, như “Từ Công Phụng,
Lời Ca – Tiếng Hát” trong tập sách này. Anh
nhắc đến tụ điểm cà phê Quán Văn (trong khuôn viên
Văn Khoa năm 1966). Seattle năm 1986. Những kỷ niệm quyện
sâu vào các nhạc phẩm Bây Giờ Tháng Mấy, Trên Ngọn
Tình Sầu, Mắt Lệ Cho Người, Giọt Lệ Cho Ngàn
Sau….Riêng, đối với nhạc sĩ Nhật Ngân trong “Bạn
Đi, Ngày Cận Tết”, anh nhắc đến vài tác phẩm
tiêu biểu của ông, như “Xuân Này Con Không Về”, hoặc
“Tôi Đưa Em Sang Sông” chẳng hạn. Nhớ đến Trần
đình Quân, Nguyễn đức Quang, Trầm tử Thiêng gắn bó
với nhạc phẩm “Chuyện Một Cây Cầu Đã Gẫy.” Tiễn
Nguyễn thụy Long bằng bài thơ khá dài, nhắc lại đoàn
văn nghệ Đường Sáng trong chương trình công tác hè của
học sinh và sinh viên hướng về nông thôn vào năm 1965.
Tất cả đều được anh thu vén, viết lại một cách
thật trang trọng. Bạn bè, bằng hữu, lần lượt bỏ
anh ra đi, đã để lại ở trong anh cả nỗi trống vắng,
biu hắt, buồn vô hạn. Tôi nhớ, có lần anh tâm sự với
tôi: “Giờ này, bọn mình đang bước vào cái tuổi xế
chiều rồi còn gì nữa! Bạn bè thì đâu có còn được
bao nhiêu! Rải rác ở chung quanh mình thì cũng đâu có
mấy! Có người thì lại ở xa, như ở Việt Nam, hoặc
các nơi khác chẳng hạn! Vì thế, nếu trời còn cho thở,
còn cho nói, còn đi đứng được, thì nên lui tới thăm
hỏi, hoặc nếu bắt tội ở xa quá, thì nên gọi nhau,
hỏi han, trò truyện trên điện thoại. Ngộ nhỡ mai mốt,
thêm dăm ba tuổi nữa, sức khỏe bị cạn kiệt, thì muốn
đến với nhau, cũng chẳng còn hơi sức đâu để mà
đến!”
Mới
đây chừng ba hôm, tôi gặp anh trong buổi ra mắt sách của
ký giả người Đức, liên quan đến cuộc chiến tranh ở
Việt Nam. Tôi đề cập đến hai chữ Nhục Vinh, và tôi
có đặt với anh câu hỏi:
“Tôi
hỏi thật: Sau 38 năm, với biết bao nhiêu những đắng
cay, thăng trầm đi qua đời anh. Giờ đây, anh đang sống
trên quốc gia đầy đủ về tất cả mọi phương diện.
Từ tinh thần cho đến vật chất. Vậy! Theo anh, thì hiện
giờ, anh đang đứng ở vị trí nào của hai chữ Vinh
và chữ Nhục!”
Anh
ngước lên nhìn tôi thật lâu, rồi hé môi nở ra nụ
cười thật hóm hỉnh. Trong cái hóm hỉnh, độc đáo ấy,
tôi đã đọc thấy được nỗi chua chát, tiềm tàng, gợn
lên ở trong đó./.
TRANG
LUÂN * 5/2013