Những
ngày đầu năm sau Tết của Huế không mưa. Cái nắng ui
ui pha màu sương khói trên đồng lúa xanh măng tơ như có
duyên nợ với bầy chim én. Những con chim én còn mang
“nghiệp - hạnh” bồ tát vẫn vô tình làm đẹp cho
cảnh bình an dưới thế bằng đôi cánh nhấp nhô dưới
trời xanh mà không cần điểm tô son phấn.
Chim én –
từng con, từng cặp, từng đàn – không hẹn hò mà tung
tăng chui vào bẫy. Hình như sóng mùa Xuân không báo vào
tần số thiên nhiên của vạn vật những rình rập oan
khiên khi đất trời bao la và lộng gió đang bình yên.
Giữa những bờ ruộng xanh, người đi bắt én thầm thì
với hạnh phúc khi đếm mỗi lúc một nhiều số én sa cơ
nằm trong lồng, trong giỏ. Kẻ cao sang thì ăn dãi yến.
Người nghèo thì đi bẫy yến kiếm sống nhưng chẳng có
ai nghĩ đến chuyện cần ăn thịt những con chim bé bỏng
nầy. Điều họ đang nghĩ tới hình ảnh bầy én mùa Xuân
hiền hòa là có thể dùng làm phương tiện đổi chác cho
người nghèo kiếm sống hay như một thông điệp tâm linh
cho giới hành thiện. Đó là khi bầy én hết “đưa thoi”
rơi vào bẫy và lại được thả ra với món tiền thế
mạng.
Trên đường
về Rú Chá, lác đác có người xách lồng én đứng chờ
ven đường.
Rồi lại
có người dừng xe mua én, sung sướng thả cho bầy én tự
do tung cánh bay về lại trời cao, miệng lẩm nhẩm nói
lời khấn nguyện.
Kẻ bắt,
người thả; kẻ thả, người bắt… thảy đều thú vị
như được dự một phiên chợ tình mà cánh én và bạc
tiền là những đơn vị trao đổi trong một chặng đường
đuổi bóng hạnh phúc. Cánh én không phải là mùa Xuân và
đồng tiền tự nó không phải là hạnh phúc. Nhưng sau
lăng kính đã quen với thế giới hình tướng của nhân
gian, chim én là dấu hiệu của mùa Xuân và “thảm đỏ
kim ngân, lưu ly” là hứa hẹn trải chờ bước chân hạnh
phúc. Tuy bầy én không cần biết mùa Xuân và hạnh phúc
chẳng cần tới thảm đỏ, nhưng mai vàng đầu Xuân và
phượng đỏ đầu Hè đã quấn quýt bên nhau tự nhiên từ
buổi nguyên sơ như mặt trời và hoa nắng. Dẫu mắt
người và tâm cảm có làm ngơ thì phượng hồng vẫn nở,
mặt trời và hoa nắng vẫn đi về… như nhóm bạn bè
của chúng tôi đang rủ nhau về Rú Chá.
Chiều về
trên Rú Chá
Về Huế,
người ta thường mong được tới thăm Hoàng thành, sông
Hương, núi Ngự… Nhưng với tuổi học trò từ làng lên
Huế học trường Hàm Nghi – xưa là trường Quốc Tử
Giám – như tôi, đã từng hàng ngày đi bộ vào cửa Hiển
Nhơn, leo lên lầu Ngọ Môn ngủ trưa; hay lông nhông tắm
trần trên sông Hương; hoặc dắt học trò trồng hàng vạn
cây thông trên núi Ngự Bình thời dạy học thì không
gian thơ mộng nhất của Huế là những vùng đất nguyên
sinh quanh Huế. Đó là những góc khuất đã có từ thời
Ô châu Lạc địa, mang hơi hướm của Huế, nặng tình
với Huế, nhưng chẳng xa Huế vì ham áo mũ của những
tân trào hay bỏ Huế mà đi khi đất bằng nổi sóng!
Ngồi sau xe
máy Honda của Túy Linh đèo tôi chạy về miệt Thuận An,
Cồn Tè, Núi Chá, cả hai chúng tôi cứ miên man nói về
bầy “chim én thiền sư” như một ước mơ làm an lạc
đời mình. Những cánh én mùa Xuân không cho nên chẳng
nhận, vô tư giữa dòng đời đầy cạm bẫy như trẻ
thơ… Khi biết đã bị lạc đường đường về Rú Chá
quá xa, tôi cười cợt hỏi Túy Linh: “Nầy bạn ơi! Chim
én có thể tự nhiên ‘đối cảnh vô tâm’ mang hạnh
thiền sư; nhưng khi mình bị lạc đường như bây chừ
thì đàn chim én ‘thiền sư’ ấy lại không chỉ đường
cho mình được.” Túy Linh cười khăng khắc như tiếng
đập vỡ nước của mái chèo vô tâm, vô tư, vô lự: “Đi
đâu cũng là đi, bốn biển là nhà thì có nơi nào là
điểm dừng mà sợ lạc?!” Con đường mòn thì giới hạn
bước chân mà con đường tâm tưởng thì vô biên xứ.
Những thân
hữu Rú Chá tiền phong dẫn đường như Hoàng Thọ, Duyên
Sanh, Lệ Dung, Thoại, Xuân, Điền và o Đáp đã sẵn sàng
qua suối, qua đầm về Rừng Chá mà chúng tôi thì chạy
lạc quá xa cũng vì… chuyện nước cuốn, bèo trôi của
những con chim én!
Cuối cùng
thì chúng tôi cũng tìm được nhau. Phải cởi dép cởi
giày và có khi phải cởi quần… dài để băng qua quán
mồ mà vào Rú Chái. Nếu xếp theo độ cao và sự bí hiểm
của thảo mộc thiên nhiên thì có: Cồn, độn, rú, rừng.
Trong những cơn lũ lụt, nước đổ mưa nguồn ở các
miền duyên hải và đồng bằng xứ Huế, con người phải
nương theo độ cao của các vị trí thiên nhiên để sống
còn như anh Đáp, người “hộ rú”, nói đến cảnh chạy
trốn lũ lụt truyền đời: “Lút cồn thì dồn vô độn
rú!” Anh Đáp nói thật thà như đếm, nhưng những nhà
ngữ học đong đưa lại phá lên cười ngặt nghẽo.
Ái Nghĩa
của Petro Times đã giới thiệu về Rú Chá như một cõi
bình an nguyên sơ của Huế:
Cách Huế
10 km, đối diện với làng Thai Dương Hạ, huyện Hương
Trà, Rú Chá là rừng ngập mặn nguyên sinh đang được
phục hồi và bảo vệ với diện tích gần 5 mẫu Tây.
Rú Chá là
tên gọi khu rừng Chá do người dân địa phương đặt ra
và được gọi từ đời này qua đời khác. Trên vùng đất
ngập nước này, cây chá mọc dày đặc. Chá là một loại
cây mọc ven rừng biển mặn. Cây tỏa cành không cao lắm
nhưng có tàn lá xanh bốn mùa. Những cây chá mọc lên san
sát, tạo thành một khu rừng có vẻ bí ẩn và hoang sơ.
Điểm đặc biệt ở Rú Chá là khung cảnh yên bình, huyền
ảo, lênh đênh sông nước, dưới những vòm cây chá cổ
xanh um, những bộ rễ có hình thù khá đẹp, bám chặt
dưới lòng đất. Tại đây, một hệ thống sinh vật khá
phong phú, với nhiều đầm phá, là nơi tập trung nhiều
cá, tôm, cua. Đặc biệt, trên mặt đất xuất hiện nhiều
hang còng, với những hình thù kì lạ, gợi lên sự tò mò
đối với khách mỗi lần đặt chân đến đây.
Rú Chá
rỗng lặng
Đã về, đã
tới… Rú Chá! Chúng tôi xắn quần, cởi hết giày vớ
đi chân trần theo chị Hồng – người đẹp Rú Chá –
vượt đường mòn băng qua quán mồ. Đường trơn, lối
mòn lắt lẻo qua đầm, qua hố, đi giữa hai hàng cây chá
nguyên sinh; có chỗ lạnh mình nhưng cũng đầy thú vị.
Tâm lý ngại ngùng đi trên con đường lắt lẻo làm cho
những người lạ dễ thành quen; những người quen dễ
thành gần để nắm tay, níu áo, dắt nhau qua con đường
bùn trơn tuột như đang cùng uốn lượn nhảy một điệu
vũ tập thể… anh em ta về. Nầy! Một hai ba… chúng tôi
kéo nhau vào căn nhà của anh Đáp, chị Hồng. Đây là căn
nhà duy nhất trong tầm mắt của vùng Rú Chá. Chủ nhân
là cặp “cấy dôn” (vợ chồng) thật cân đôi vừa lứa
của thời thất thập cổ răng long!
Trên khuôn
mặt rám nắng, có dáng vẻ gió biển, sương rừng và bụi
rú của hai anh chị, người ta bắt gặp nét can trường
và chơn chất. Anh Đáp có cái nhìn xa xăm rất biển khơi
mà trầm tĩnh, nhân hậu. Chị Hồng có nét cười không
cất giấu và tươi tắn như những mớ tôm, mớ cá tươi
xanh vừa vớt lên khỏi mặt nước. Chị Hoàng Thọ là
người gần gũi thường xuyên với anh chị Đáp thì cả
quyết cho rằng, đây là cặp vợ chồng hạnh phúc nhất
trần gian vì ngày ngày họ chỉ thấy nhau và cùng nhìn về
một phía biển khơi nên tâm yêu thương không bao giờ bị
lung lạc. Tôi chợt có ý nghĩ ngồ ngộ là những cặp vợ
chồng sắp ly dị, thử về đây sống một tháng trong
cảnh cô liêu của trời nước mênh mông; nhưng cũng đầy
những dấu hiệu chấn động dị thường của thiên nhiên
để có thể tự mình tìm lại một ý nghĩa mới cho cuộc
tình sắp tàn phai.
Cả nhóm về
thăm Rú Chá ùa vào nhà anh chị Đáp. Mấy o ở Huế mới
về mà sử dụng bếp núc và hết thảy các phương tiện
trong nhà tự nhiên và thành thạo như chính trong căn nhà
của mình. Những món ăn mang theo và các món ăn hải sản
mới đánh bắt lên khỏi mặt nước với tài nấu nướng
của những “o Huế” sành điệu đã biến buổi ăn trưa
thành “tiểu yến” với hàng chục món ăn biến chế từ
mắm ruốc tương cà, thịt phay tôm chua, rau trái đến các
loại cá bống thệ, bống mủ… nấu ngót, kho nước, kho
rim điệu đàn thơm phức.
Ai
về Rú Chá thì về
Sau bữa ăn
trưa với những món ăn rất Huế từ các tuyệt phẩm…
nghề mọn riêng tay của mấy o thì đến phần văn nghệ
của “ca đoàn Boléro Chợ Nọ” được hội diễn ngay
trên cái sạp đan bằng tre nứa, bắt trên sóng nước.
Cái sạp tre gập ghềnh nầy vừa là vọng cảnh đài, vừa
là bàn ăn, vừa là giường lộ thiên, vừa là sân khấu
dã chiến khi ăn no… tinh thần văn nghệ bừng lên. Độc
đáo nhất là khi tham gia văn nghệ trên sạp nứa nầy thì
mọi người đều phải thực hành hạnh tỉnh thức. Diễn
viên hay khán giả nào lơ mơ thì sẽ được nghe ngay tiếng
“bass” tự thân mình rớt tòm xuống nước! Ca đoàn
Boléro Chợ Nọ hôm nay có đủ mặt ngũ nhạc kiếm phái…
nhớ chi hát nấy: Hoàng Thọ, Lệ Dung, Duyên Sanh, Trương
Hạ, Hoàng Xuân. Tiếng hát “Đây xóm nghèo quê tôi khi
nắng lên…” trong khung cảnh quê mùa hoang dã, một phút,
đã làm tôi sững sờ vì nó tái hiện âm thanh, màu sắc
và cảm xúc tâm lý hơn hai mươi năm trước ở làng Liễu
Hạ, trong buổi chia tay cuối cùng với Mẹ tôi.
Một ngày
vui qua mau. Buổi chiều, nắng đầu Xuân mau phai, Rú Chá
chếch bóng chiều hôm rất sớm, để lại vùng đầm phá
phẳng lặng như mặt hồ Thụy Sĩ. Chúng tôi chia tay. Túy
Linh và tôi đèo nhau trở lại Huế. Quỹ thời gian của
đời mình còn ít quá, chắc gì tôi còn dịp… băng đồng
chỉ sá từ Cali khăn gói về thăm lại Rú Chá lần thứ
hai. Túy Linh phát biểu một câu rất… thiền mà cũng hơi
phiền (?!), rằng là: Vạn pháp sinh duyên; duyên sinh vạn
pháp. Rú Chá là một vùng đất duyên sinh chăng. Dẫu sao
thì sau khi về sống một ngày với Rú Chá, một người
bình thường mang nặng những niềm vui, nỗi buồn trong
cuộc sống không ngừng biến dịch như tôi bỗng cảm
thấy lòng mình an lạc. Từ đó, lòng người sẽ biết
sống với chính mình thông thoáng hơn và sống với người
đầy yêu thương độ lượng hơn.
Trần Kiêm Đoàn - Huế, đầu Xuân 2013
Trần Kiêm Đoàn - Huế, đầu Xuân 2013