thanh trí |
Một,
hai, ba, chúng ta đi lính Cộng Hòa
Vì
quê hương chúng ta thì rất hiền hòa
.
. . . .
Đi,
đi nào cùng đi, đi giữ phố phường
Đi,
đi nào cùng đi, đi giữ ruộng nương.
(Phạm
Duy) (1)
Quả
tình tôi đi lính không phải vì bị lôi cuốn theo thời
đại, như trong bài hát trích ở trên của Phạm Duy. Mãi
đến khi tôi đi lính rồi, người miền Trung (Quảng Trị)
mà lưu lạc vô tới Rạch Giá, Hà Tiên, hoạt động trong
các vùng Cái Sắn, Mỹ Lâm (quê hương của Nguyễn Tấn
Dũng), cho tới Chùa Hang, hòn Phụ Tử, Đông Hồ, Mũi
Nai..., tôi mới nghe bài hát trên, được trình bày trong
các chương trình phát thanh của bộ Xây Dựng Nông Thôn.
Tôi thấy vui, và thấy rõ thêm rằng, tôi bỏ Huế nhập
ngũ sau tết Mậu Thân năm 1968, hay đang lội bùn, vạch
lau lách chèo xuồng ba-lá mà đi hành quân ở “Kinh Kháng
Chiến”, bên ngoài “Rừng Tràm Trà Tiên”, là tôi làm
cái công việc “giữ phố phường”, “giữ ruộng
nương” như trong bài hát vậy.
Giữ
cho cái đẹp của Huế được tồn tại, việc ấy, những
ai ở Huế tết năm ấy, Mậu Thân, biết rõ cả, còn như
“giữ ruộng nương” thì phải về tận thôn xã, mới
biết Việt Cộng “thâu
thuế nông nghiệp ác”
như thế nào. Thu thuế như cách của Trần Chí Tài (Phó
bí thư huyện Hà Tiên), Ba Vốn (kinh tài xã Tân Hội, Kiên
Tân), cha con Bảy Lơi, Sáu Lánh ở xã Đức Phương (tức
Vàm (Dàm) Rầy), quê hương sinh đẻ của chị Tư Nết,
(Annette), tức là bà đại tướng thủ tướng Khiêm đấy,
thì nông dân không còn hột gạo để đổ vô nồi mà nấu
cơm.
Như
tôi kể trong bài “Xứ Thủ Đức năm canh thức đủ”,
sau tết Mậu Thân, tôi tự nguyện “bỏ
cục phấn đi cầm súng”,
chả là “chán
lắm rồi”.
“Sách
vở ích gì cho buổi ấy”
là câu thơ của cụ Tú Xương, cụ chán cái học nhà Nho,
thời đại suy vi của đất nước. Còn tôi, “giặc
tới (tận) nhà”
tôi rồi, “giã
từ trường yêu...”
giã từ “10
năm gõ đầu trẻ”,
đi lính là vừa.
Tôi
trình diện không có lịnh gọi cá nhân, trễ mất hai
ngày, theo thông báo của Nha Động Viên/ Bộ Quốc Phòng.
Ông đại úy Trầu, sai lính lật sổ trình diện, ghi tôi
lên hàng đầu, trước cả người trình diện mang con số
1. Dễ hiểu thôi, hôm ấy, tôi gọi người em rể là đại
úy Trương Đình Hiên, lái xe Jeep qua đưa tôi đi. Dĩ
nhiên, ông đại úy trưởng phòng Tuyển mộ Nhập ngũ
Tiểu khu Thừa Thiên, không xa lạ gì với ông đại úy
Quản lý Bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Bạn bè với nhau
vậy mà.
Tôi
là người “lề mề”.
Tết
Mậu Thân, khi hai phe đang đánh nhau, Huế chưa giải tỏa
hoàn toàn, không nhớ vì chuyện gì, tôi lang thang gần chỗ
bãi trực thăng ở bến đò Tòa Khâm, thấy có một ông
mang ba mai bạc, bảng tên là ĐAM, xuống trực thăng rồi
đi vào tiểu khu. Ít lâu sau, có thông cáo của Nha Động
Viên/ Bộ Quốc Phòng, “ân xá” cho thanh niên Huế, những
ai có lệnh gọi nhập ngũ, đều được hoãn trình diện
một tháng. Có thể ông đại tá Bùi Bình Đạm, giám đốc
Nha Động Viên lúc ấy, thấy tình cảnh tang thương của
Huế, nên ban một chút ân huệ, gia hạn trình diện, để
người ta có thêm thì giờ thu xếp việc nhà, trước khi
“tòng quân”. Vậy đó, đã có lệnh cho hoãn một tháng
mà tôi vẫn trình diện trễ.
Việc
nhà tôi lúc đó lu bu lắm. Phải thuê nhà mới vì nhà cũ
đã bị pháo kích sập hồi tết Mậu Thân, vợ tôi lại
mới sinh đứa con thứ tư.
Vợ
tôi im lặng, không nói một lời, không than thở, can ngăn
khi tôi với với cô ấy: “Thôi! Anh nhập ngũ.” Thật
là khác với ba năm trước, hôm tôi đi dạy về, cô ấy
ôm tôi thật chặt, rồi hôn tới tấp lên mặt tôi. Tôi
nghĩ thầm: “Việc chi ri hè?” Té ra, em gái tôi, làm
xướng ngôn viên ở đài phát thanh Huế, thấy có danh
sách gọi nhập ngũ khóa 21 Thủ Đức sắp đọc trên đài,
có tên tôi, vội vàng về nhà báo cho chị dâu biết: “Anh
Hải có tên gọi rồi.”
Biết
có tên, vợ tôi sợ tôi phải đi lính. Tôi thì không vui,
không buồn. Rồi cũng tới phiên mà thôi!
Tại
sao lần nầy thái độ vợ tôi khác đi. Có lẽ do tác
động của bạn bè.
Sau
khi tình hình Huế tạm yên, thì lại có tin “Việt Cộng
sắp tấn công đợt 2”. Tin ấy là do ông trung úy Liên
Thành, phó ty Cảnh Sát Đặc Biệt cho biết, hôm ông ấy
gặp vợ tôi đến thăm Thanh Yên, em gái ông Liên Thành,
vợ thiếu tá Hóa, chánh văn phòng đại tá Trưởng (cấp
bậc lúc ấy), tư lệnh Sư Đoàn 1.
Thế
rồi, vì tin VC sắp tấn công đợt 2, tôi đưa vợ con vô
Đà Nẵng, trong đó có Quân Đoàn, tình hình an ninh tốt
hơn. Ở Đà Nẵng, vợ tôi đến thăm người bạn thân
hồi con gái: Như Xuân, vợ Hoàng Xuân Định, em nghị sĩ
Hoàng Xuân Tửu. Định lại là bạn thân của tôi hồi
mới học trung học. Định nói với vợ tôi: “Về biểu
thằng Hải đi lính. Người ta đi hết rồi, còn “lặn”
chi nữa!”
Tôi
trình diện ở Phòng Tuyển Mộ Nhập Ngũ xong, được cho
về. Hôm sau, 8 giờ sáng trở lại, có xe đưa vô Đà
Nẵng. Tôi nhờ anh Hoàng Dĩnh, học trò của tôi, chở tôi
đi. Cô ấy ở nhà, không biết có khóc hay không! Tới
nơi, có chiếc GMC chờ sẵn. Một lúc sau, tất cả người
trình diện lên xe, xe đầy người, có ông trung sĩ “chỉ
huy”. Xe lên đường vô Đà Nẵng, địa chỉ là “Trung
Tâm I, Tuyển Mộ Nhập Ngũ.” Vài ngày sau, đưa qua Tổng
Y Viện Duy Tân khám sức khỏe; tình trạng tốt. Vậy là
hôm sau nữa lãnh quân trang: Trước tiên là một cái xách
“ma-re”, hai bộ đồ trận, - thường gọi là đồ
treilly -, hai áo “may-ô”, hai quần xà lỏn - may kiểu
quần chân què như của mấy bà hồi xưa -, một cái nịt
vải, hai đôi tất (vớ) vải, một đôi giày bố (cao su,
màu đen) có giây, một mũ lưỡi trai, khăn mặt, kem và
bàn chải đánh răng, “pông-sô” (poncho), “gà-mèn”...
Đời
lính “gian lao” từ đây...
Trung
tâm nầy, tôi vào lần nầy là lần thứ hai. Hai lần
trước đều được hoãn. Việc vào ra trại dễ dàng,
không như bây giờ: “Nội bất xuất”.
Một
buổi chiều, trung úy (cấp bậc lúc ấy) Lê Văn Tịnh chở
“mạ” đến thăm tôi. Tịnh gọi tôi bằng cậu. Mẹ
Tịnh là chị tôi, con gái người chị cả của mẹ tôi.
Ở Quảng Trị, gia đình Tịnh và gia đình tôi cùng xóm.
Chiều chiều, vài khi rảnh việc, “Chị Đội”, cái tên
thân yêu, bà con xóm phường đều gọi như thế cả, mẹ
của Tịnh, sang thăm mẹ tôi. Nói cho đúng là “sang chơi
với dì”, là mẹ tôi. Chị ấy mồ côi mẹ sớm. Đó
cũng là lý do rất gần gũi giữa hai dì cháu. Tịnh, tuy
là cháu, nhưng thua tuổi tôi cũng không bao nhiêu, học sau
tôi chỉ có 2 lớp, cũng như bạn.
Khi
đến thăm tôi ở Trung Tâm, mẹ Tịnh đem theo dĩa xôi,
thịt kho. Mấy lần trình diện trước, ra trại được,
tôi thường đến ăn cơm nhà chị. Bà chị tôi kho cá nục
“hết sẩy”. Cơm, cá nục, rau muống chấm nước cá có
ớt cay. Đời như thế hạnh phúc chán. Tìm đâu cho xa!
Tịnh
hỏi: “Lần ni cậu đi chưa hay về?”
-
“Không về nữa. Đi luôn”. Tôi nói.
Bà
chị tôi cự nự: “Nói xui! Đi lính rồi về. Ai nói đi
luôn như cậu!”
Người
Việt Nam hay tin dị đoan, sợ những lời nói xui, nhất là
khi “đi giữa súng đạn.”
Những
ngày ở tại Trung tâm thật buồn. Ăn xong chẳng biết làm
gì, đi lòng vòng quanh trại. Con đường phía ngoài hàng
rào kẽm gai, dân chúng đi lại tấp nập, vui vẻ... Một
đám mấy cô đi ngang, mỗi cô mặc một màu áo dài khác
nhau: xanh, trắng đỏ... Một tay “cờ bạc” nào đó,
nói to: “L. tứ sắc”. Ai nấy đều cười. Buổi chiều,
tôi hay trải “pong-sô” nằm bên cạnh một gốc dương
liễu, nghe gió reo và nhìn lên bầu trời xanh thẳm. Bầu
trời nầy làm tôi nhớ bầu trời trên sông Thạch Hãn,
cũng những buổi chiều hè, cũng nằm trên bãi cỏ, cũng
nhìn lên trời. Nhưng cái thời niên thiếu ấy đã xa rồi,
xa lắm rồi. Một chốc, mới đó mà đã gần hai mươi
năm...
Cơ
quan Tâm Lý Chiến của “phe ta” thực hiện nhiều công
tác cũng “lạ” lắm. Cứ những chiều buồn như thế,
trên loa phát thanh của trại lại thường phát bài do
Hoàng Oanh ca. Giọng cô ta trong, làn hơi mạnh, lại buồn,
mà cứ réo rắt: “Nếu
có anh, chiều nay ta sẽ lên đồi sim, Anh hái hoa tím cắm
lên đôi bờ tóc mềm...” Đúng
ra, họ nên cho phát những bài nào hùng mạnh lên một
chút... để cho lòng người ta phấn chấn. Đã xa nhà, mới
xa nhà, nghe những bài như thế chỉ muốn trốn trại.
Không lý Trung Tâm Nhập Ngũ xúi chúng tôi đào ngũ?
Hôm
đi khám sức khỏe ở Tổng Viện Duy Tân lại gặp một
chuyện buồn nữa. Sau Tết Mậu Thân, Quân đội Mỹ và
Quân đội VNCH hoạt động mạnh hơn, đuổi địch ra càng
lúc càng xa các thành phố, thị xã. Bên kia hàng rào Tổng
Y Viện là phi trường Quân sự Đà Nẵng, máy bay lên
xuống liền liền. Mỗi khi cất cánh, máy bay oanh tạc
phản lực gầm rú nghe ghê lắm, lửa đỏ phừng phực,
tuôn ra sau ống phản lực, chớp chớp, sáng lòe, tôi chưa
từng thấy bao giờ.
Đang
ngồi nhìn qua phi trường thì có anh thương binh đến
“chào thầy”. Tôi biểu anh ta ngồi xuống bên cạnh hỏi
chuyện chơi. Tưởng ai lạ, té ra là Đắc, mới năm kia
còn học với tôi. Đắc học không giỏi, nhưng cả
trường, nhiều người biết anh. Anh là tay “đập bóng
sấm sét” trong đội bóng chuyền của trường. Anh cũng
lại là tay đánh trống trong đội múa “Trấn Thủ Lưu
Đồn” của thầy giáo Nguyễn Minh Sơn. Với trang phục
“lính thú ngày xưa”, anh ta múa tay “thùng
thùng trống đánh ngũ liên”
thật nhuyễn và lạ mắt, nhiều người khen ngợi. Thế
rồi “hỏng
tú tài, anh đi trung sĩ”,
ra đơn vị chưa bao lâu thì bị thương nặng trong một
trận đánh ở Quế Sơn: Mất một chân, hư một mắt. Anh
học trò giỏi thể thao, văn nghệ như thế, tài ba như
thế mà nay bỗng “tàn phế”.
Anh
ta đi lâu rồi, thế mà tôi vẫn còn ngồi trên ghế
xi-măng, thẩn thờ. Có phải lỗi tại tôi không nhỉ? Dạy
“Chinh Phụ Ngâm” cho học sinh, tôi đem cái hình tượng
chinh phu mà vẽ ra trong trí óc bọn trẻ, là thần tượng
của một thời đại, của mọi thời đại, rằng một
thanh niên thì phải “xếp
bút nghiên theo việc đao cung”,
rằng “chàng
niên thiếu vốn dòng hào kiệt”,
rằng “Áo
chàng đỏ tựa ráng pha”,
rằng “Bất
nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử?”
Không! Tôi chỉ làm một việc phải, chỉ ra con đường
người thanh niên của thời đại chúng ta phải đi, và
chính tôi cũng đang đi trên con đường ấy, như mọi
người, chớ tôi đâu có “xúi dại” người khác đi,
để tôi được “một
đời an nhàn vô sự...” đâu?
Khi
ngồi trên chiếc C-123 đi Saigon thụ huấn, tôi buồn hơn
là lo cho vợ con. Sau trận đánh tết Mậu Thân, nhà cửa
không còn, tài sản không còn, thế mà tôi đành bỏ vợ
lại và bốn đứa con nhỏ cho vợ chăm sóc mà đi lính.
Nghỉ dạy, cũng có nghĩa là “cắt hợp đồng”, lương
tiền không còn, cô ấy lấy gì nuôi con? Nhưng đi thì cứ
đi, đâu có riêng gì tôi trong hoàn cảnh đó. Đó cũng là
cách tự an ủi vậy thôi! Nhưng tại sao tôi lại muốn ứa
nước mắt khi nghĩ đến gia đình: “Tình
gia thất nào ai chẳng có? Miệng hài nhi chờ bữa mớm
cơm.” Trước
mặt tôi, phia bên kia máy bay, đối diện là trung úy
Thương, mặc đồ rằn ri Biệt Động Quân, trước kia học
một lớp với em gái tôi. Anh quê ở làng thủy cơ An Hội.
Cũng mới về thăm nhà, trông anh cũng không vui gì hơn
tôi, mặc dầu anh xa nhà đã lâu, xông pha trận mạc đã
nhiều.
Từ
phi trường Tân Sơn Nhứt, tất cả chúng tôi đều được
đưa về Trại Tiếp Liên ở Khánh Hội. Trại dành cho tất
cả binh sĩ và gia đình, không kể cấp bậc, tạm trú
trên đường đi qua Saigon nhưng không có nơi tạm trú,
không muốn hay không có tiền thuê khách sạn.
Phía
trong cổng trại là nơi buôn bán “sầm uất”, nhiều
nhất là các món nhậu và bia chai. Đi cùng chuyến với
tôi có ông Trần Văn Rô, giáo sư trường Bồ Đề Huế
và Tôn Thất Hùng, cùng dạy với tôi một trường. Thấy
có món nhậu và bia rẻ hơn ở Huế nhiều, Rô rủ tôi và
Hùng ra nhậu một chầu. Bia cao rẻ hơn bia lùn, “xí
quách” lại rẻ hơn nữa. Thế là hôm đó, “bọn
tôi ba đứa”
làm không biết mấy chai, thau đựng “xí quách” chỉ
còn xương, rồi ngủ một giấc không còn biết trăng trời
chi nữa...
Tại
trại tiếp liên, không chỉ có “dân vùng I”. Hôm đó,
“dân Vùng II” cũng tới luôn nên sáng hôm sau phải 3 xe
GMC mới chở đủ bọn lên Trung Tâm Huấn Luyện Quang
Trung. Khi xe theo đường Hai Bà Trưng, ngang trước Dinh Độc
Lập, mới xây lại xong, anh nào cũng muốn ngoái cổ nhìn,
có nhiều anh chẳng thấy được gì.
Xe
dừng trước cổng trại Nguyễn Tri Phương, là trại tiếp
chuyển, trước khi chuyển qua Liên Đoàn A hay Liên Đoàn B
để thụ huấn. Chưa kịp xuống xe, lại còn phải lè kè
cái xắc Ma-re, thì ông thiếu úy Thêm, người ra nhận
khóa sinh, đi dọc các xe la nạt om sòm, khiến ai nấy đều
sợ. Có người than: “Lính chớ có phải tù đâu mà ghê
thế!” Sắp hàng, điểm danh xong, cho vô từng nhà tìm
chỗ ngủ. Ông thiếu úy Thêm ra về, ai nấy nhẹ nhỏm.
Té ra, ông thiếu úy Thêm cũng rất hiền. Bởi vì ông ta
là thương binh loại 2, miểng đạn còn trong sọ não, nên
đôi khi, như Rô bảo: “Điện
xăng đít lên đơ xăng vanh”,
la lối một chút vậy thôi, chưa phạt ai bao giờ.
Tối
đó tập họp điểm danh mới là... kinh!
Cái
sân tối mờ mờ, không có điện. Ánh sáng trong nhà tỏa
ra yếu ớt. Sắp hàng xong, chưa kịp điểm danh thì một
anh nào đó, ngã chúi xuống đất, “bất tỉnh nhơn sự”,
được khiêng lên bệnh xá. Sau đó một giờ, ngồi chơi
trong sân, có người nói, anh chàng té lúc nãy chết rồi.
Gì mà ghê thế?! Vào trại chưa được 24 giờ đồng hồ
đã có người “vị Quốc vong thân”. Thầy giáo Rô nói
với tôi, “cậu mày biết không”, đất nầy xưa là
rừng cao su, khí hậu độc lắm, “đi dễ khó về”. Tôi
nhớ có đọc “Rừng Địa Ngục” của Ngọc Chấn. Rừng
địa ngục là rừng cao su đấy, không sợ sao được!
Gần
tới khuya thì có ông trung sĩ già đi tuần, thấy bọn tôi
còn thức nói chuyện, ông hỏi: “Tụi bây chưa ngủ, nhớ
quê? “Qua” hồi nẳm cũng dzậy!”
Tôi
hỏi:
-
“Trung sĩ đi lính lâu chưa?”
-
“Đừng gọi “qua” là trung sĩ. Gọi “qua” là thầy
đội. Thầy đội Điều.” Rồi ông ta nói thêm một hơi:
“Qua” Đi lính hồi Tây nó mới trở lại. Người ta đi
“Nam bộ kháng chiến”, “qua” đi lính Tây. Tây nó cần
“qua”vì “qua” có “du học Hà Nội” (2). Hồi nẳm
thằng đại tá Nguyễn Văn Q. cùng đi lính với “qua”.
Sau, nó đi “xĩ kuang”, làm giám đốc nha Quân Pháp đấy.
“Qua” không thiết. “Qua” đóng loon đội là được
rồi. Làm “kuang” chi cho mệt.
Tôi nói: “Thời
Tây, trong Nam mới có người đóng loon quan một, quan hai.
Ngoài tui, loon “Thầy đội” là to lắm, không mấy ai
lên quan quản.” Rồi tôi đọc câu ca dao:
Gió
đưa ông đội vô dinh,
Mụ
đội thương tình, xách nón chạy theo.
Ông
đội đòi cưới con heo,
Mụ
đội đòi cưới con mèo cụt đuôi!
Thầy
đội Điều nói: “Ngoài Huế tụi bây bày đặt “thơ
dzăng”. Cái chi mà đòi cưới con heo, con mèo. Cưới thì
cưới con “dzợ bé”. Dzợ con, mệt lắm. Nhậu là
“dzui”. Ngày nào “qua” cũng làm một “xị”.
Cứ
thế cho tới khuya, bọn tôi hỏi vì tò mò, thầy đội
Điều thì khoái kể chuyện nhậu, chuyện mồi. Mồi thì
có rắn, lươn, rùa, cần đước, kỳ đà, cá lóc, tôm,
tép... Hết món nhậu dưới đất tới món nhậu trên
trời: chim cu, tu hú, chàng bè, cò, ngỗng, vịt xiêm, vịt
xiêm lai... Chuyện nhậu kể sao cho hết.
Vốn
không phải dân nhậu, tôi hỏi “nhậu một xị, xị là
cái gì?” Thầy giáo Trần Văn Rô cười, trả lời: “Thế
mà cũng hỏi. Rượu đựng trong cái chai xá-xị, nên mới
gọi “xị” rượu. Biết chưa?” Tôi cười: “Biết
rồi, khổ lắm, nói mãi.” (3)
Những
ngày sau, khám bệnh lần hai, chỉ khám răng. Sắp hàng
dài, hết người nầy, tới người khác, đứng trước
mặt ông thượng sĩ già, há miệng ra. Ông dùng miếng gỗ
nhỏ, banh má ra, hết má bên nầy tới má bên kia, xem qua
loa, rồi hô to: “Tốt”. Thế là xong.
Nhưng
không xong, bởi vì ông thượng sĩ “giọng Bắc Kỳ rệt”,
vừa banh miệng chúng tôi, vừa đọc sang sảng thơ Nguyễn
Công Trứ cho chúng tôi nghe: “Tước
hữu ngũ, sĩ cư kỳ liệt, Dân hữu tứ, sĩ vi chi tiên.
Có giang sơn thì sĩ đã có tên, Từ Chu, Hán vốn sĩ nầy
là quí....” (4)
Ông
thượng sĩ đọc một hơi toàn bài, hết bài nầy tới
bài khác. Ông thuộc thơ lắm, nhưng ông chỉ đọc thơ
Nguyễn Công Trứ, có lẽ vì ông nghĩ rằng chúng tôi là
“sĩ”. Bề gì thì chúng tôi đang là “Khóa sinh Dự bị
Sĩ quan”. Thỉnh thoảng, ông thượng sĩ ngưng đọc, hỏi
anh chàng đang đứng trước mặt ông: “Biết
cụ Nguyễn Công Trứ không?”,
“Thuộc
câu nào của cụ Nguyễn Công Trứ không?”
Người được hỏi phần nhiều trả lời biết, hoặc
biết chút ít. Không ai trả lời không biết. Học sinh hồi
ấy, dù ít nhiều cũng đã học thơ Nguyễn Công Trứ,
trong chương trình Việt Văn lớp đệ Tứ (lớp 9 bây
giờ), và học lại một lần nữa ở lớp đệ Nhị (lớp
11 bây giờ). Thí sinh Tú Tài 1, rất thường gặp đề bài
hỏi về Nguyễn Công Trứ, nhất là dưới chế độ của
tổng thống Ngô Đình Diệm.
Lại
có thi trắc nghiệm để chọn ngành. Vào phòng, mỗi người
một ghế, nhận tờ giấy quay ronéo có sẵn mấy chục
câu hỏi, trả lời theo kiểu Mỹ, cứ a, b, c khoanh, xong
đem nộp. Về sau, khi gần mãn khóa ở Thủ Đức, theo
thông báo của bộ Tổng Tham Mưu, chẳng mấy ai được
chọn vào lính văn phòng, không tác chiến như quân nhu,
quân cụ, quân vận... Phần đông là bộ binh, chọn binh
chủng: Nhảy dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân,
Sư đoàn Bộ Binh hay Tiểu Khu... Anh chàng Nhơn, học trò
cũ của tôi, nói: “Em khoanh bậy cho xong. Em muốn đi
TQLC.” Tôi hỏi: “Sao vậy?” Anh ta cười: “Loon TQLC
đẹp hơn, đeo oai hơn.” Tôi cười, thông cảm cho người
trẻ. Thế mà khi thông cáo phổ biến, anh lại đi Công
Binh. Máy điện tử chạy sai rồi!
Đang
ở trại Nguyễn Tri Phương thì nghe tin “phái đoàn dân
biểu Quốc hội” lên Quang Trung.
Câu
chuyện mấy ông dân biểu “chiếu cố” là như thế
nầy:
Toàn
bộ khóa 1/ 68, học xong giai đoạn 1 ở Quang Trung, được
điều lên Trường Bộ Binh Thủ Đức học giai đoạn hai,
ra trường mang loon “chuẩn oái”. (Chuẩn úy, chúng tôi
gọi đùa là chuẩn oái). Đến khóa 2/ 68, một nửa lên
Thủ Đức, một nửa ra trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế
(Nha Trang), ra trường mang “loon trung sĩ”. Ở đây, đâu
phải “hỏng
tú tài anh đi trung sĩ”. Lý
do là: Thủ Đức không còn chỗ chứa. Số “khóa sinh Dự
bị Sĩ quan” bị đưa ra Đồng Đế một cách ngang xương,
không vì học kém hay vô kỷ luật mà vì Thủ Đức “chật
như nêm”. Người ta đồn, anh thủ khoa khóa 2/ 68 ở
Quang Trung, bị ra Nha Trang, uất ức, kê mũi súng garand M-1
vào cằm, tay nhấn cò. Thế là xong một đời trai trẻ.
Hầu hết đám Khóa sinh Dự bị Sĩ quan bị ra Nha Trang
tuyệt thực, biểu tình. Quốc Hội họp liền, lên tiếng:
Bộ Quốc phòng phí phạm tài nguyên quốc gia. Khả năng
của họ là sĩ quan, tại sao lại cho đi hạ sĩ quan? Báo
chí phản đối um sùm, dân chúng dư luận xôn xao, sinh
viên giao động... Tổng thống Thiệu ngồi yên đâu được.
Phụ tá đặc trách liên lạc quốc hội của tổng thống
là ông dược sĩ Nguyễn Cao Thăng chạy lui, chạy tới
giữa quốc hội và phủ đầu rồng. Mọi việc yên ổn:
Dù ra Nha Trang, các Khóa sinh Dự bị Sĩ quan nếu thi đậu,
sẽ ra trường với loon chuẩn úy như các sinh viên sĩ
quan Thủ Đức vậy.
Sự
kiện nầy không kéo dài, chỉ mấy hôm, các cơ quan chính
phủ, Hạ Viện, Thượng viện họp bàn, quyết định gấp.
Thế là xong. Các dân biểu, nghị sĩ đối lập như Ngô
Công Đức, Dương Văn Ba, Nguyễn Sinh Tứ, Hồng Sơn Đông
và (cái gì...) Nhuận đấy, (tôi không nhớ)... hết sức
“hung hăng con bọ xít”. Đây là dịp mấy chả hát bài
“mãi võ Sơn Đông” kiếm phiếu, “bỏ qua rất uổng”!
Cũng nhờ vậy mà việc được giải quyết nhanh hơn. Dù
là “Dân chủ nửa mùa”, - như có người chê - , xem ra,
so với chế độ cai trị bây giờ ở Việt Nam, cũng tốt
hơn nhiều! Mấy chả được ra sĩ quan, các khóa sau cũng
yên tâm, dù sao cũng hy vọng được gắn cái “quai chảo”
(loon chuẩn úy), khi ra trường.
Thế
rồi, cả đám chúng tôi ở trại Nguyễn Tri Phương được
cho đi phép... một tháng. Lý do: Khóa 4/ 68 đã đủ quân
số, không thể nhận thêm. Chúng tôi chờ khóa sau, khóa
5/ 68. Đi phép, chúng tôi vui mà Bộ Quốc phòng cũng khỏe,
phát đủ lương binh nhì cho chúng tôi mà khỏi lo “nuôi
ăn”.
Tôi
mừng như trúng số, ra ngay Saigon, nhờ cô cháu gái tên là
H.T.K.K. đang làm việc ở Air Việt Nam mua vé máy bay, ngày
mai đi Huế, thăm vợ con. Một tháng ở nhà qua nhanh, cũng
đủ thời gian đưa cô ấy và mấy đứa nhỏ vô Qui Nhơn,
tạm trú nhà người chị, cùng vợ vô Saigon dự đám cưới
“Hùng Móm”. Xong, đến ngày trình diện, lại vô trại
Nguyễn Tri Phương. Lần nầy đã quen, không còn bở ngỡ
và... sợ, như “thuở ban đầu” làm lính mới tò te.
Mấy ngày sau thì mang xắc “ma-re”, lội bộ qua Liên
Đoàn A. Đầu tiên thì vô tiểu đoàn Trần Bình Trọng.
Hú hồn, khỏi vô Tiểu Đoàn Nguyễn Huệ! Tiểu Đoàn
Nguyễn Huệ do ông đại úy Hiến làm tiểu đoàn trưởng,
nổi tiếng kỷ luật. Anh nào lè phè được ông tiểu
đoàn trưởng chiếu cố đặc biệt, chăm sóc tận tình:
hít đất, nhảy xổm với đầy đủ súng đạn, ba-lô...
là việc rất thường.
Kể
cả thời gian đi phép, tôi đi lính đã được một tháng,
tới kỳ lảnh lương. Ông đại úy tiểu đoàn trưởng
tiểu đoàn Trần Bình Trọng ngồi ở bàn ông. Bọn chúng
tôi, tập họp từng trung đội, đứng hàng một, chờ
phía ngoài. Ông thượng sĩ thường vụ đại đội đứng
ngay cửa, kêu tên từng người, hết anh nầy lãnh lương
xong, đi ra, anh kế tiếp được gọi vào. Người vào,
đứng nghiêm trước mặt tiểu đoàn trưởng, đưa tay
chào, nói to và mạnh: “Khóa sinh Dự bị Sĩ quan Nguyễn
Văn X. (hay Trần Văn Y. gì đó), số quân xxx, xxx, trình
diện đại úy.” Xong ông đại úy đưa tiền, - ông chỉ
đưa tiền chẳn, tiền lẻ ông “quên”. - Người lãnh
lương lại đưa tay chào: “Cám ơn đại úy”, xong quay
ra. Vì chưa học “cơ bản thao diễn”, chỉ mới học
trình diện cấp chỉ huy, nên việc quay phải, quay trái
còn lung tung, chưa đúng “cơ bản thao diễn”.
Được
một chốc, ông thượng sĩ thường vụ đại đội, đứng
tại cửa, nói to: “Các anh vô, nhớ trình diện số
quân tám số nghe chưa!”
Số quân 8 số nghĩa là phải có 2 số đầu, “ngụy số”
của năm sinh. Ví dụ: Số quân của tôi 2 số đầu là
59, có nghĩa là tôi sinh năm 1939, cộng thêm 20 (năm “trưng
binh”) là 59. Sáu số sau là số vùng chiến thuật: 205 vì
khi tôi làm thẻ trưng binh, bắt đầu có số quân, thì
miền trung thuộc Đệ Nhị Quân khu, nên tôi có số 2 đầu
tiên, v.v... Như vậy, khi vào trình diện, câu tôi nói là:
“Khóa sinh Dự bị sĩ quan H.L.H., số quân: (tôi phải đọc
đủ 8 con số như đã nói).
Tới
phiên một khóa sinh vào lãnh lương, chào xong, anh nói to:
“Khóa sinh Dự bị Sĩ quan L.Đ. (XXX - xin dấu tên, mặc
dù tôi còn nhớ), số quân tám
số,
trình diện đại úy.”
Ông
đại úy tiểu đoàn trưởng không khỏi ngạc nhiên: “Anh
trình diện cái gì lạ dzậy? Hai chục cái hít đất.”
Thấy anh ta “thi hành lệnh phạt”, cả bọn chúng tôi
cười mà không dám cười to. Bình tĩnh là điều quan
trọng, nhất là khi “đụng trận”. Sự sợ hãi, trong
nhiều trường hợp, cũng giống như “giận mất
khôn”
vậy.
Thế
rồi bất thần, chúng tôi được chuyển qua tiểu đoàn
khóa sinh Đinh Tiên Hoàng. Chỉ đổi cái danh hiệu, doanh
trại thì như cũ. Hôm sau, toàn cả tiểu đoàn họp ở
sân chỉ huy. Trời mưa nhỏ và hơi lạnh, ai nấy trùm
poncho ngồi chồm hổm. Thầy giáo Trần Văn Rô, ngồi bên
cạnh tôi, rủ rê: “Xuống câu lạc bộ làm chai bia mày,
bớt lạnh.” Tôi và Rô trốn xuống câu lạc bộ, uống
hết chai bia, sợ lặn lâu sinh chuyện, lại mò về chỗ
tập họp. Vừa tới nơi thì nghe ông tiểu đoàn trưởng,
đại úy Nguyễn Hữu Tài, gọi tên tôi. “Chết cha rồi!”
- Tôi tự nghĩ thầm, không lý ông ta biết tôi lặn? Té
ra, tiểu đoàn khóa sinh tập họp bầu đại diện. “Tiểu
đoàn trưởng, đại diện tiểu đoàn khóa sinh” (tên gọi
như thế) đã bầu xong, là ông kỹ sư Nguyễn Đình Mô.
Bây giờ tới bầu “phó đại diện”, có người đề
nghị tên tôi, nên tôi được đại úy Nguyễn Hữu Tài
gọi lên. Ông ấy bảo: “Anh em muốn bầu anh làm phó.
Anh có ý kiến gì không”. Bấy giờ tôi mới hiểu đầu
đuôi câu chuyện, tại sao ông đại úy tiểu đoàn trưởng
gọi tôi lên đây, không phải cái tội “lặn xuống câu
lạc bộ uống bia” trong khi tiểu đoàn khóa sinh đang
sinh hoạt. Hú hồn!
Biết
rồi, tôi nói ngay: “Thưa đại úy tiểu đoàn trưởng,
thưa anh em.
Tình hình bây giờ sau vụ khóa sinh bị đưa ra Đồng Đế
cũng hơi căng. Chúng ta là thành phần đi sĩ quan, không
thể “ra trung sĩ” được. Việc nầy, nếu tôi làm việc
gì đó đại diện cho anh em,
thì tôi phải là cái gạch nối (tôi tránh dùng chữ đấu
tranh) vững chắc, giữa ban chỉ huy tiểu đoàn và anh em,
nhất định quyền lợi chúng ta không bị thiệt thòi.”
Nghe
nói tới chuyện không thể “ra trung sĩ”, là trúng ngay
mối lo của mọi người nên họ hoan hô to lắm, hầu hết
đưa tay bầu cho tôi, nên tôi “đắc cử vẻ vang”, gần
một trăm phần trăm, mà không cần phải “bầu cử gian
lận”.
Thấy
không khí vui vẻ, ông đại úy Tài nói đùa: “Anh Hải
đi lính rồi mà còn tưởng còn đi dạy, gọi tất cả
khóa sinh bằng em”.
Thật ra, vì trốn đi uống bia mới quay lại, hồi hộp,
lại “hơi men” đang còn, - tửu lượng tôi kém -, lại
trời lạnh, lại bị gọi lên bất thần, hơi “hoảng”
nên tôi phát biểu không rõ. Hai tiếng “anh em”,
tôi chỉ nói rõ tiếng “em”,
mà không rõ tiếng “anh”, nên ông mới nhận xét như
thế.
(Trong
hình của tôi, độc giả thấy tôi đeo tòn ten ở ngực
miếng nhựa có ba gạch vàng là “loon” tiểu đoàn phó
của tôi đấy. Cái chức nầy cũng cho tôi nhiều cái
“khỏe” trong suốt 9 tuần học quân sự ở Quang Trung.
Đó là “dễ kiếm cớ ở nhà” khi đại đội phải đi
ra bãi bắn. Bãi xa lắm. Tôi có cớ để “lặn” rất
tài tình!)
Thụ
huấn chưa được một tuần thì mỗi người được chích
một mũi TAB, thuốc làm da đen lại, môi tím ngắt. Nhờ
vậy nên số đông chẳng ai bệnh hoạn gì hết. Tôi bị
chứng nhức đầu kinh niên, bệnh đi mất, mãi tới bây
giờ, mấy chục năm, cũng chưa thấy “trở lại viếng
thăm”. Sau đó là “hiến máu”, hiến một bịch. Hiến
xong, được ăn một ổ bánh mì thịt to tướng, rồi cầm
tờ giấy phép 24 giờ.
Về
vũ khí cá nhân, ban đầu chúng tôi học súng Garand M-1,
thường gọi đùa là “Garand - Em-mệt”, cây súng khá
nặng, 5kg3, bán tự động, mỗi gắp đạn chỉ có 8 viên,
rất phổ biến trong bộ binh Mỹ hồi Thế giới Chiến
Tranh thứ hai. Tết Mậu Thân vừa qua, trong khi quân đội
VNCH còn dùng Garand M-1 thì VC dùng AK-47 (Kalashnikov), chỉ
nặng có 3kg47, băng đạn 20 viên, bắn nhanh hơn, hỏa lực
mạnh hơn. Vì vậy, quân đội VNCH bắt buộc thay Garand
bằng M-15, - chưa phải M-16 -, có dịp sẽ nói sau. M-15 chỉ
nặng 3kg2. Tuy nhiên, trong khi học, thi tác xạ, vẫn dùng
Garand M-1. Về M-15, chỉ học cho biết, ra đơn vị, tính
sau. Sự kiện nầy cho chúng ta thấy, chúng ta “đi sau”
Việt Cộng là vậy.
Việc
thứ hai, ở Quang Trung, cũng “khá quan trọng” là “chà
láng”. Vùng nầy đất pha cát. Các đường mương thoát
nước chung quanh đại đội thường bị nghẻn vì cát đổ
xuống. Chúng tôi được lệnh mỗi ngày phải vét cái
mương ấy cho thông nước. Công việc được chia cho từng
trung đội, tiểu đội, chia xuống cho từng khóa sinh, mỗi
người chịu trách nhiệm chưa tới một thước bề ngang.
Sáng sớm, sau kẻng đánh thức là chúng tôi ra ngay cái
đường mương thoát nước ấy, lấy “gà-mèn” xúc cát
dưới đáy mương lên, đắp vào hai bên bờ, rồi lật
cái đáy “gà-mèn” chà cho láng bờ mương, xong đi rửa
mặt, xuống câu lạc bộ dằn bụng bằng một gói xôi
lạp xường. Công việc vét mương, chúng tôi gọi là “chà
láng”. Danh từ nầy xuất hiện đâu từ các “bậc tiền
bối”, chúng tôi nói theo. Sợ quan khách đến viếng trại
chê, nên chúng tôi được lệnh trên bắt phải chà láng
bờ mương hằng ngày, phải chà đẹp, không thì dễ bị
“lãnh củ”. Chuyện chà láng, vì vậy, cũng quan trọng
như việc học. Đó là “bệnh hình thức”, như người
ta hay chê “bịnh hình thức”. Hình thức mà lại quan
trọng!!!???
Lâu
lâu được gặp cái khoái “đi gác tuyến” ở “Trung
Tâm Phát Tuyến Quán Tre”, gần “bãi trực thăng”. Đài
phát thanh Sàigon là đài vô
tuyến,
tức là phát bằng làn sóng điện, không có giây. Làn
sóng được Đài Quán Tre phát lại, cũng bằng vô tuyến,
nhưng tên thì gọi “tréo cẳng ngỗng” là “Phát
Tuyến”. Tuyến là đường giây, là giây. Giây đâu mà
phát? Mấy chả ưa chơi chữ, sao không gọi là trung tâm
“phát sóng Quán Tre”. Nhưng chỉ có Việt Cộng mới gọi
là phát
sóng.
Phát là tiếng Hán Việt. Sóng là tiếng Nôm, tiếng
Hán-Việt sóng là “ba”, ghép chung với nhau thành một
tiếng nghe sao được!? Ghép như vậy khác chi trên thì mặc
“áo veston”, mà dưới thì “quần cháo lòng”, hay quấn
“xà-rông” như mấy ông Miên hay mấy ông tổng thống
Bắc Phi, ngó không được con mắt. “Trung Tâm Phát
Tuyến”, gọi thế mà gọi được?! Nhưng gọi như thế
nào thì “mặc cha người ta”, đi tuyến ở bên đó thì
được ăn bún bò. Bên đó, có một bà cũng khá lớn
tuổi, vợ một ông thượng sĩ, người Huế, mở quán bán
“bún bò khuya”, nghĩa là sau 8 giờ mới mở cửa. Ngay
Huế, những người bán bún gánh, bún tiệm, không mấy ai
bán bún bò khuya, huống chi ở “rừng cao su” nầy.
Khuya, nằm ngoài tuyến khó ngủ, “lặn” đi ăn một tô
bún bò, sao mà nó ngon thế! Ngon vì cái tài của người
nấu, mà cũng vì nhớ Huế nữa đấy! Nuốt một sợi bún
bò, là nuốt vào lòng “sợi nhớ, sợi thương”.
Lương
lính chẳng bao nhiêu, lại ưa uống bia, sáng ăn xôi mà
không ăn bánh mì kèm với chuối chín hay đường cát do
trại phát, lại còn bày đặt ăn bún bò khuya, chẳng bao
lâu mà có anh “bạn cùng khóa” mượn tiền tôi. Cự
nự, hỏi tiền lương đâu, anh ta than: “Tiền lính tính
liền” mà anh!”
Đáng
thương và đáng mến nhất là các khóa sinh tiểu đoàn
Vương Mộng Hồng ở bên cạnh. Đây là tiểu đoàn khóa
sinh của Binh Chủng Dù. Họ dậy rất sớm, 4giờ rưởi
sáng, trời chưa sáng hẳn, đã ra bãi. Họ không đi bộ
lè phè như chúng tôi mà vừa chạy vừa hô “Nhảy Dù!
Cố gắng”, “Nhảy Dù! Cố gắng”. Đơn giản chỉ là
“cố
gắng”,
nhưng không ít anh mệt quá mà xỉu trên đường chạy,
thì cán bộ “đánh thức” bằng roi giây điện chặp
lại, không phải bằng thuốc khỏe. Bị đánh đau quá,
không tỉnh cũng phải tỉnh. “Nhảy Dù! Cố gắng!” “Cố
gắng” tới bao giờ??!!!
Một
hôm gặp Lê Đắc Lực, một người học trò cũ mà cũng
là em của anh Nguyễn Minh Sơn, bạn đồng nghiệp. Thấy
anh ấy đội mũ đỏ Nhảy Dù, loon thiếu úy, tôi hỏi:
“Đi lính khi nào?” “Dẹp bàn thờ xong thì đi.” Tôi
nhớ năm 1966, anh ấy có tham gia “Phong trào đấu tranh”.
Xong, anh đi mất, bây giờ mới gặp, anh đã là cấp trên
của tôi. “Tha hương ngộ cố tri” nên vui lắm. Tôi
không hỏi anh ấy làm gì ở tiểu đoàn Vương Mộng Hồng.
Vả, anh ấy là người vui tính, vui chuyện nên chuyện vui
như pháo tết. Một lúc tôi than: “Học bên Nhảy Dù cực
quá! Học sao nỗi”. Thiếu úy Lực giải thích: “Phải
vậy thầy à! Khi đánh nhau mới biết, huấn luyện không
kỹ, rất dễ “rửa chân ngồi bàn thờ”. “Rửa chân
ngồi bàn thờ” là tiếng gọi đùa về cái chết của
người lính.
Trong
chín tuần học quân sự, cái khổ nhất đối với tôi là
thiếu ngủ. Buổi sáng dậy thì cũng không quá sớm, tối
chẳng bao giờ ngủ muộn, vậy mà muốn ngủ kinh khủng.
Ngồi đâu tôi cũng ngủ được; còn như ngồi trong lớp,
tôi ngủ gục là chuyện thường. Nhớ hồi còn đi dạy,
thấy học trò ngủ gục là tôi rầy, phạt. Vậy mà bây
giờ, chẳng có huấn luyện viên nào phạt tôi cái tội
ngủ gục. Có thấy, họ cũng nói nhỏ nhẹ: “Anh ra ngoài
rửa mặt đi.” Có khi giờ nghỉ, tôi ngồi dựa lưng vào
cây bã đậu, giống cây vông đồng, nhưng nhỏ hơn, thân
có gai nhọn. Tôi dựa lưng vào những cái gai đó mà ngủ
ngon lành.
Trong
khi tôi ngủ thì anh em chung quanh phì phà thuốc lá, vừa
hút vừa kháo nhau về “tên mới” của các hiệu thuốc
lá do binh lính đặt ra mà đùa. Người ta khoái nhất là
câu “Cho anh phát súng tại anh ngu” diễn dịch từ tên
gói thuốc lá Capstan đấy.
Trung
tâm Huấn luyện Quang Trung trồng rất nhiều cây bã đậu
để có bóng im cho khóa sinh. Trước cổng mỗi đại đội
có một bể nước để khóa sinh lấy nước uống, bể
làm bằng một cái ống cống lớn bằng xi-măng để dứng,
có nắp, xe nước tới châm nước hằng ngày. Bể nước
nầy lâu lâu phải súc, bằng cách khóa sinh nhảy vào
trong mà vét cho sạch. Thế rồi có cả đại đội bị
tiêu chảy, kéo nhau lên bệnh xá xin thuốc. Bệnh xá cho
điều tra. Té ra bên cạnh bể nước có cây bã đậu, mấy
trái bã đậu già rụng vào bể, ngay miệng nắp, như “cò
ỉa miệng ve” vậy! Theo ngoại khoa, người xưa dùng hột
bã đậu để làm thuốc xổ. Nay cả chục hột bã đậu
thối rã trong bể nước, cả đại đội “bị Tào Tháo
đuổi” thì có gì lạ đâu! Có anh chạy không kịp, phải
qua “gởi nhờ” ở nhà cầu đại đội bên cạnh. Thế
là có lệnh toàn tiểu đoàn đi súc tất cả các bể
nước. Được nghỉ một buổi học, khỏe quá!
Tất
cả các môn học, vũ khí, chiến thuật, cá nhân, tiểu
đội, di hành, tuần tiểu, vượt sông... cái gì tôi cũng
học, nhưng tinh thần và kết quả thì... qua loa. Hôm học
bài “Di hành đêm”, 8 giờ, trời sập tối, đại đội
di chuyển ra bãi tập. Tất cả ngồi bệt xuống đất.
Huấn luyện viên đứng phía trước đoàn quân giảng bài,
tôi có nghe được cái gì đâu. Trước mặt tôi, một đám
năm sáu anh, chuyền tay nhau, chụm đầu xem cái gì đó,
cười rúc rích. Không biết là gì, tôi nói: “Ê! cho tao
xem với!” Có đứa nói: “Dẹp ông đi! để bọn tôi.”
Té ra tụi nó có một vật gì đó, lớn hơn hộp quẹt
một chút. Bấm vào nút, màn hình hiện ra một con đầm...
ở truồng. Xem hết hình nầy chuyển qua hình khác. Huấn
luyện viên giảng bài cứ giảng, bọn dưới nầy xem hình
đầm ở truồng cứ xem, coi như không biết đến nhau.
Thầy giáo Trần Văn Rô ngồi bên tôi nói: “Ở ngoài
hình PlayBoy thiếu gì, không xem, vô đây giành nhau.” Tôi
cười: “Không có thành hiếm, giành nhau coi cho vui. Ông
không thông cảm gì tụi trẻ cả. Coi hình thì vậy, đến
khi thấy thực tế nằm chình ình trước mặt thì run”.
“Ông kinh nghiệm dữ!” Thầy giáo Rô nói mỉa tôi. Tôi
cười: “Không ai nói tài thánh được cả. Đoạn
trường ai có qua cầu mới hay.”
Rô lại nói: “Sướng muốn chết mà ông gọi là đoạn
trường,
văn với thơ!”
Đêm
ngồi giữa bãi, bốn bề trống trải, gió thổi nhẹ và
mát. Thấy thích thú, tôi bèn nằm ngữa xuống đất, ngó
lên trời. Hôm đó, trời trong, không trăng, nên sao ra
nhiều. Nhìn sao trên trời, tôi bỗng nhớ một đoạn văn
của Lưu Nghi: “Đêm
đêm trời lặng gió lành, nằm ngữa mặt nhìn ngàn sao,
lòng người êm dịu một cách kỳ lạ. Nằm sát mặt đất
mà tưởng như đứng đỉnh núi cao, nhìn ra đại hải.
Những chấm thuyền li ti xê dịch dọc ngang, cái xê dịch
chỉ thoáng nhẹ như chút hoài nghi, mắt người không thấy
được, nhưng lòng người lâng lâng say một cuộc viễn
hành. Trong tư duy dấy lên những bụi đường...”
Một
cuộc viễn hành?
Vâng,
tôi đã từng mơ một cuộc viễn hành. Tên tôi là Hải,
tôi từng nộp đơn xin học khóa 8 Hải Quân Nha Trang. Tôi
không mơ lắm để thành một sĩ quan, nhưng tôi yêu vô
cùng đời một thủy thủ phiêu bạt đầu trời cuối bể
như Jack London, mơ “thần tượng” cách mạng “gót
giày lấm bụi đường” ở quê người như Nhất Linh,
như Ché Guévara của Châu Mỹ La-Tinh. Một người làm cách
mạng như Nhất Linh, như Ché, như Nasser; không phải một
người làm chính trị như Phidel. Khi một người làm cách
mạng trở thành một người làm chính trị, là người ấy
tự “xóa
sổ đời mình”
như ông Ngô Đình Diệm, ông Hà Thúc Ký, Phidel Castro và
cả ông Hồ Chí Minh...
Người
lãng mạn là người thiếu thực tế. Tôi mê những câu
hát “Viễn Du” mà trở thành người mơ mộng hảo
huyền: “Hãy
ghé bến bờ, có những xóm dừa, chiều nhuộm vàng làn
tóc ngây thơ. Có những núi mờ, đứng mãi ngóng chờ,
chờ người về đầu non trắng xóa...” Từ
giã tuổi ấu thơ, tôi dìu tâm hồn niên thiếu của tôi
vào những hình ảnh mơ mộng như thế...
Tôi
không thực hiện được điều tôi mơ ước khi còn trẻ.
Gánh nặng gia đình, lo dạy học thay mẹ nuôi các em, rồi
có vợ con... đến bấy giờ, quá “tam thập nhi lập”
như Khổng Tử bảo thì đời tôi đã trễ tràng, còn ước
mơ gì nữa. Dù không có lệnh gọi, “tự động trình
diện”, tôi không phải là người chọn binh nghiệp. Tôi
chỉ làm theo lời dạy của cổ nhân “Quốc
gia lâm nguy…”
Giờ đây, chỉ mới những ngày đầu của anh lính mới
tò te, cùng thao dượt quân trường với một đám thanh
niên nhỏ hơn tôi ít nhất mười tuổi, tôi không ao ước
đậu thủ khoa, mà chỉ cần “theo kịp” các bạn đồng
môn là đủ, nhưng bao giờ tôi cũng cảm thấy cô đơn,
lạc lỏng một cách kỳ lạ, như một con ngựa già chạy
nhảy giữa đồng cỏ hoang với những con ngựa trẻ. Con
ngựa già không biết nó già, nhưng tôi biết phận mình
giữa một đám thanh niên còn đầy nhiệt huyết. Tôi vẫn
thấy đời còn đẹp, nhưng nghĩ tới tuổi tác của mình,
tranh đua với bọn trẻ trong quân trường, tôi thấy mệt,
mệt lắm. Mai đây, trên con đường đi tới tương lai,
hay trở về nghề cũ, tâm hồn tôi giống như một câu
thơ của Pham Thiên Thư: “Con
đường..., bông hoa còn đẹp, lòng sao thấm mệt!?”
Lệnh
tổng động viên đưa quá nhiều thanh niên vào quân
trường, khiến nhiều trường thiếu thầy giáo. Ưu tiên
là các “giáo viên ấp tân sinh”, được biệt phái về
trường cũ sớm nhất, dù khóa học chưa xong. Các giáo sư
trung học, trình diện sau tôi vài tháng, chỉ học 9 tuần,
cũng được biệt phái về nhiệm sở cũ. Công việc phó
đại diện tiểu đoàn của tôi, chính yếu là soạn và
sắp xếp các bài học in bằng ronéo của khóa trước để
lại, phát cho khóa sinh trong tiểu đoàn. Vì công việc nầy
nên vài giáo sư, đồng nghiệp cũ của tôi ở Huế, như
anh Trần Văn Đ., hiệu trưởng trường Tây Lộc, bị động
viên ở tiểu đoàn Trần Bình Trọng xin tôi bài đem về
học. Họ sợ, cuối khóa, nếu họ thi hỏng, sẽ không
được biệt phái.
Các
đồng nghiệp cũ khuyên tôi nên làm đơn xin biệt phái.
Tôi lập hồ sơ, theo lời khuyên của họ, nhưng khi tôi
tới phòng Quân Vụ, bộ Giáo Dục, ông thiếu tá trưởng
phòng nói thẳng với tôi, phải có 5 chục ngàn, “việc
nầy mới xong”.
Một phần không có tiền, mấy ai làm nghề “gõ đầu
trẻ” mà giàu? Một phần không muốn trở lại con đường
cũ. Con đường cũ chỉ đẹp trong tâm hồn, khi nó trở
thành hiện thực, không thiếu những điều đáng buồn,
nên tôi không tìm cách trở lại “con đường trong tâm
tưởng” đó nữa.
Có
lần tôi nói Phạm Văn Nga: “Ngán nhất là tập “Đoạn
đường chiến binh”. Anh ta cười: “Có gì mà ngán!”
Đu giây, leo giây, leo tường, nhảy dài, nhảy cao... tôi
không ngán, nhưng lần bị té ở cầu cây, - cây hình tròn
- khiến tôi bị trượt chân, té không đau, nhưng bi trặc
chân, làm tôi hoảng hồn. Tuy vậy, hôm thi mãn khóa, tất
cả khóa sinh phải qua “Đoạn Đường Chiến Binh”, môn
thi có số điểm cao, thì trước khi vào “bài thi”, đang
chờ, gần như hầu hết khóa sinh đều “sắp hàng ngang
tưới cỏ” bên đường. Tôi nói với Nga: “Cậu thấy
chưa! Sợ té đái đấy! Thi cái nầy thằng nào chẳng
sợ...”
Một
khóa sinh đại đội tôi được bằng thiện xạ. Anh ấy
đạt điểm cao cả ba thế bắn: Đứng, quì và nằm, mặc
dù súng ở quân trường là súng cũ. Tôi bị phạt ba ngày
trong cấm, - phạt không ghi hồ sơ, theo nguyên tắc -, vì
súng tôi quá cũ. Tôi thường đùa với các bạn bằng
cách: “Coi súng tao nè!” Nói xong, tôi lấy một đầu
đạn Garand 7ly 62 nhét vào đầu nòng súng. Viên chạy chạy
ngược trong nòng, đụng cơ bẩm cái cạch. Tôi mở cơ
bẩm, lôi viên đạn ra, đưa cho mọi người xem. Cười.
Trường
hợp thầy giáo Trần Văn Rô “kinh hoàng” hơn. Hôm thi,
anh đưa súng lên vai, nhắm mục tiêu bắn phát đầu tiên.
Anh bóp cò, súng nổ. Anh lại nhắm vào đầu ruồi để
bắn phát thứ hai, không thấy đầu ruồi đâu cả. Ống
hơi và đầu ruồi bay mất. Vì đang lúc thi, anh hoảng hốt
đưa súng khiếu nại giám khảo, mà lại vô ý chỉa ngay
mũi súng vào ông ta để giải thích, khiến ông này cũng
hoảng hồn: “Đạn còn trong nòng mà anh chỉa súng vào
tôi.”
Nút
ống hơi gài vào ống hơi bằng gai như đinh ốc, sợ bị
phạt, khóa sinh mở ra chùi hàng ngày, chùi từ mấy đời,
khiến gai mòn, có khi rớt mất. Bị mất, nếu khai lên
đại đội, sợ “lãnh củ” nên người mất lén lấy ở
súng của người bên cạnh, gắn vào súng của mình. Anh
thứ hai mất nút ống hơi, lại lặng lẽ “chôm” của
người thứ ba, v.v... Cứ thế nút ống hơi mất dài
dài... Chỉ có một cái nút ống hơi mà cả chục người
mất. Tới phiên Rô, anh lặng lẽ nói riêng với ông
thượng sĩ thường vụ, nhờ mua ở kho, chỉ có 20 đồng.
Rô “công bố” việc anh ta mua nút ống hơi, từ đó, ai
mất thì cứ đi mua, đại đội mới hết lộn xộn, than
vản, thắc mắc, nghi ngờ nhau.
Tới
bữa, khóa sinh xuống nhà bàn lãnh thực phẩm về ăn. Cơm
không hạn chế, tuy không phải gạo ngon, nhưng bổ, vì
khi cơm sôi, nhà bếp xổ vào đó cả mấy trăm viên
Vitamin C, lấy xẻng trộn cho đều, ăn vào không khỏe sao
được! Còn đồ ăn, ngày nào cũng có hai món: Rau muống
chặt từng khúc, rửa, không lặt lá úa, lá thối. Cá thì
chỉ có một thứ: Cá mối; ngày nào cũng như ngày nào.
Vì vậy, trong khóa sinh có câu nói đùa: Trước, “gà-mèn”
sắp lối (để nhà bếp xúc cơm vào cho), sau cá mối
thẳng hàng. (cá mối để từng hàng dài, có muỗng to,
mặc sức mà lấy). Chúng tôi chỉ lấy cơm, xong ra cái
kiosque phía ngoài nhà bếp. Kiosque nầy thường lảnh thêu
bảng tên cho khóa sinh, và bán thức ăn phụ: Một bịch
nylon nước mắm ớt pha loảng, ba bốn lát chã mỏng, giá
1 đồng. Có một kiosque có hai cô con gái đứng bán,
“thiên hạ” chen nhau mua.
Thường
cuối tuần, chúng tôi được đi phép; Thứ bảy ra trại,
chiều chủ nhật vô. Thỉnh thoảng bị cấm trại, không
có phép vì một lý do gì đó. Một hôm cấm trại, có anh
học trò cũ đến rủ tôi: “Ba em đến thăm, thầy ra câu
lạc bộ chơi.” Tôi theo anh ta. Chào hỏi xong, thân phụ
người học trò, đại úy hải quân, kêu bia cho tôi. Tôi
nói chỉ uống một chai, không uống được nhiều. Ông ta
cười:
-
“Thế là hỏng, cấp chỉ huy như thầy là hỏng!”
Chưa
kịp hiểu ý, ông nói ngay:
-
“Thầy biết ra đơn vị, lính nó hỏi nhau cái gì không?
Ông chuẩn úy nầy có uống rượu được không hay “sữa
nước sôi”. “Sữa nước sôi” là hỏng, không chỉ
huy chúng nó được đâu. “Chuẩn úy sữa nước sôi”
mà chỉ huy được ai?”
Từ
đó, tôi phải tập nhậu, không, sợ lính nó “leo lên
đầu”.
Có
một tuần, nhà tôi lên thăm mà không có phép. May gặp
ông thiếu tá Gíp A Sáng, liên đoàn phó, nhà tôi xin thăm.
Ông thiếu tá bảo lính gác gọi tôi ra. Vợ chồng ngồi
chuyện trò ngay cổng. Ấy là thăm đặc biệt đấy. Hình
như ông thiếu tá nầy sau đắc cử “dân biểu”. Nhắc
lại câu chuyện nầy là để cám ơn ông thiếu tá.
Khóa
sinh Dự bị Sĩ quan thường được đi phép. Khóa sinh tân
binh ít đi phép hơn. Tuy nhiên, gần bộ Chỉ huy Trung tâm,
có “Vườn Tao Ngộ” để khóa sinh được gặp gia đình.
Lại chữ nghĩa tào lao! Tao ngộ là sự gặp gỡ “tình
cờ”,
như Tú Uyên gặp Giáng Kiều trong “Bích Câu kỳ ngộ”.
Ở đây, gia đình, thân nhân, bạn bè, người yêu, người
tình, v.v… đi thăm tân binh, sao gọi là Tao Ngộ? Vườn
Tao Ngộ có nhà để ngồi, che nắng che mưa. Nhưng cũng có
nhiều cặp, vợ chồng hay bồ bịch gặp nhau, hôn hít
trước mắt mọi người thấy kỳ lắm - Xứ Việt Nam đâu
như Mỹ miếc nầy - bèn căng poncho ngoài vườn, dưới
gốc cây cho im mát. Hai “anh chị” làm gì trong đó mà
cái poncho lùng bùng, rung rinh; ai mà biết!
Tuy
nhiên, khi độc giả nghe Phương Hồng Quế hát “Vườn
Tao Ngộ” không thấy xúc động hay sao?
“Hôm
nay ngày Chủ Nhật, vườn tao ngộ em đến thăm anh.
Đường
Quang Trung nắng đổ xa xôi
Mà
em đâu có ngại khi tình yêu ngun ngút cao lên dần.
Ta
nhìn nhau bâng khuâng.
Đâu
biết rằng chuyện đôi ta sẽ vui
hay buồn.
Ngày
mai ra đơn vị,
đường
trần hai
lối mộng
thôi từ đây biết ra sao...”
Ngày
mai ra đơn vị, đời vui
hay buồn
là có thật, nhưng bảo rằng hai
lối mộng
thì ông nhạc sĩ thi vị hóa đời lính đấy! Vài ông nhà
thơ, nhà văn quân đội, mang lon đội mũ, ngồi ngậm ống
vố, uống càphê ở La pagode, Saigon, làm thơ tán gái, nói
chuyện chiến trường, chuyện lính, tưởng tượng ra
những chuyện mơ mộng hảo huyền, “tào lao thiên đế”,
chẳng ra thế nào cả.
Thơ
văn là mộng mị.
Ngoại trừ một số người đi lính vì ham danh vọng, còn
phần đông “thất
phu hữu trách”, “anh ơi phải lính thì đi”,
như tổ tiên dạy, chẳng phải “tránh nặng tìm nhẹ”,
núp bóng che dù, COCC (5) để khỏi ra chiến trường. Mấy
ai mơ khanh tướng làm chi? Ông nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
từng kinh qua đấy: “Lòng
trần còn tơ vương khanh tướng, thì đường trần mưa
bay gió cuốn còn nhiều... em ơi!”
Giấy
phép cho Khóa sinh Dự bị Sĩ quan thường là 24 giờ,“bốn
giờ đi lại thêm bốn giờ về”. Có
anh còn cộng thêm mấy giờ vô Chợ Lớn mua... đuôi
chuột. Ở Quang Trung nhiều chuột quá nên có “lệnh diệt
chuột”. Ai giết được nhiều chuột sẽ được thưởng
12 hay 24 giờ phép. Thế là thiên hạ kéo nhau đi diệt
chuột. “Tìm và diệt” (5) riết rồi chuột cũng ít đi,
khó kiếm. Có người nảy ra sáng kiến. Chợ Lớn nổi
tiếng “bánh bao thịt chuột”. Vậy thì vô Chợ Lớn
mua đuôi chuột. Đuôi chuột không làm bánh bao được.
Mua đuôi chuột xong, đem vào nộp cho đại đội, để
được ghi phép đặc biệt tuần sau. Thế rồi, tiểu đoàn
biết chuyện, lại “bể mánh”. Bây giờ lệnh ra không
chỉ nộp đuôi chuột mà phải nộp nguyên con. Lệnh nầy
có khó khăn hơn, nhưng vẫn ăn gian được. Chuột chết
thì hôi, mở bao đựng chuột chết ra cho thượng sĩ
thường vụ kiểm soát. Ông nhăn mũi hỏi: “Mấy con?”
Năm nói thành mười. Ai hơi đâu lật từng con mà đếm.
5 con thì 12 giờ phép, 10 con thì 24 giờ. Có khi, ở đời,
thằng ăn gian vẫn hơn!?!?
Tuần
nào không đi phép, cuối tuần ở lại, đêm thứ Bảy,
tới Văn Khang “thưởng thức văn nghệ”. Từ khóa
trước, tiểu đoàn đã dựng một nhà hát văn nghệ, đặt
tên là Văn Khang. Nó như một câu lạc bộ, bàn ghế là
những thân cây lớn cưa ngang, rất mỹ thuật. Một tấm
thân cây rộng cỡ 2 mét, làm bàn, bên cạnh là những
khúc cây nhỏ, giống như những cái đôn, làm ghế. Cuối
căn nhà là sân khấu. Văn Khang chỉ bán “Coca”, ngâm
trong thùng phuy đá, không bán bia. Ai muốn hát, ghi tên lên
sân khấu hát chơi. Vài ba cô ca sĩ hạng hai của Saigon,
được mời vô biểu diễn, có nhạc sĩ Xuân Điềm kéo
violon phụ họa. Ca sĩ hát không tệ, nhạc sĩ kéo violon
cũng hay. Thế là chương rình kéo dài từ 7 giờ tối cho
tới 10 giờ đêm. Nhạc sĩ Xuân Điềm cũng như em ông,
Xuân Lạ là Khóa sinh Dự bị Sĩ quan khóa tôi. Xuân Điềm
phụ trách chương trình văn nghệ cho Văn Khang, nên mỗi
tuần, ông đi “công tác” cũng hơi sớm. Lý do: Để mời
ca sĩ. Bù lại thì cuối tuần, ông phải ở lại trại để
coi sóc chương trình. Ông Xuân Lạ nghe như đã hy sinh, ông
Xuân Điềm còn sống, hiện ở Cali, lãnh đạo ban Tù Ca,
v.v....
Gần
cuối khóa, tôi được gọi lên văn phòng. Tới nơi, một
ông đại úy tuyên úy đứng dậy chào tôi: “Thầy khỏe
không?” Tôi mừng rỡ. Trường tôi dạy thường có mấy
chú, đại đức đến học nhờ các lớp Trung học Đệ
nhị cấp (cấp ba). Họ không muốn học ở trường Quốc
Học, lại không thể vào Thiên Hựu. Ông hiệu trưởng
trường tôi, là “đệ tử” thầy Trí Quang, nên các
chú, đại đức được ưu tiên học ở đây, miễn học
phí. Chú Bình, chú Thuyết, chú Ca... đều học trường
nầy cả. Chú Bình học ở đây, sau tốt nghiệp Đại
Học, làm hiệu trưởng trường Bồ Đề Huế, hiện giờ
là thượng tọa Thiện Hạnh đấy.
Người
đến thăm tôi hôm đó là chú Thái, bây giờ là đại
đức đại úy tuyên úy
Phật giáo. Thầy ấy nói:
- “Thầy vừa về Huế, (ông tự xưng là thầy, theo phong tục Việt Nam), ghé thăm trường, nghe
thầy
Xướng nói thầy (ông cũng còn gọi tôi bằng thầy), đang
học ở đây, nên ghé thăm.”
Tôi
hỏi: “Thầy làm tuyên úy?”
Làm
tuyên úy, đồng hóa cấp bậc đại úy. Một cách tế
nhị, ông đại đức tuyên úy nói với tôi: “Thầy phải
đeo loon, mới dễ xin phép vô thăm thầy.”
Ngồi
chuyện trò thăm hỏi một lúc, đại đức tuyên úy hỏi
tôi: “Ở trại, thầy có đi chùa được không?”
Tôi
trả lời: “Ai muốn đi chùa, cứ xin phép đại đội
trưởng, có người đưa đi vì chùa nằm ngoài phạm vi
liên đoàn.” Một lúc, tôi nói tiếp: “Nhưng thầy biết,
trước giờ, tui có đi chùa chiền gì đâu! Tui không phải
là “phật tử thuần thành”, không thuộc kinh kệ. Cũng
như đại đa số người Việt, tui là “phật tử truyền
thống”. Tổ tiên, ông bà tui theo Phật, tui cũng theo
Phật. Tui học Phật với cha mẹ, bà con, xóm làng, dân
chúng.” Rồi tôi lại hỏi: “Thầy nhớ hồi ấy tui dạy
“Văn chương Bình dân” không? Đạo Phật của dân tộc
ta ở trong “Văn chương Bình dân” đấy. Tui dạy môn ấy
là dạy đạo Phật cho học trò.”
Ông
đại đức cười: “Thầy biết. Thầy cũng biết luôn
thâm ý của thầy khi thầy giảng về truyện cổ tích,
tục ngữ, ca dao.” Đại đức tuyên úy hỏi tiếp: “Về
Chiến tranh Chính trị, người ta dạy cái gì?”
- “Có gì đâu!” Tôi nói. “Chiến tranh Chính trị”, chúng tôi gọi đùa là “lấy mồm mép, đỡ chân
tay”,
viết tắt là CTCT, nghĩa là “cứ thế, cứ thế” mà
học, mà dạy. Người nghe thì “cứ thế” mà nghe, riết
rồi cũng không biết mình nghe cái gì. Huấn luyện viên
cũng có người “cứ thế” mà nói, rồi không nhớ mình
nói cái gì?”
- “Buồn cười! Nghe có học bài “Tứ đại công khai?” Đại đức hỏi.
Tôi
lại cười: “Cũng có người công khai, nhưng nếu cấp
chỉ huy “không công khai” thì mình thưa được à? Thưa
ai? Có khi còn bị đì. Trong quân đội, quan trọng là
“Tình
thầy Trò”.
Cấp chỉ huy biết thương lính, lính thương cấp chỉ
huy. “Tình thầy trò” là truyền thống người Việt
mình.”
Ông
đại đức tuyên úy lại hỏi: “Vậy “Huynh đệ chi
binh?”
Tôi
lại cười: “Cái nầy cũng là truyền thống dân tộc,
nhưng cái chi mà tuyên truyền thì thiệt cũng thành dỗm.
Điều nầy thì “Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi”. (3)
- “Nếu nói “Thầy Trò”, tình thương, là nói tới tôn giáo. Không đưa tôn giáo vào chương trình
học
Chiến tranh Chính trị” được hay sao?” Ông đại đức
tuyên úy lại hỏi.
Tôi
trả lời: “Tôi không hiểu sao đặt Nha Tuyên Úy vào
trong Tổng Cục Chiến tranh Chính trị. Vậy là muốn “quân
đội hóa tôn giáo” hay “tôn giáo hóa quân đội” hay
tôn giáo cũng là một phương tiện chính trị? Tôn giáo
phải nằm ngoài quân đội. Quân đội chỉ có Dân tộc.
Tuyên úy phải lo về từ bi của Phật, bác ái của Chúa
là quan trọng nhất, không phải chỉ có cầu an, cầu
siêu, cầu nguyện...”
“Tình
thương xóa bỏ hận thù?” Ông tuyên úy hỏi.
- “Vậy là tuyên truyền nữa. Cuộc chiến tranh nầy, người ta gọi là “Chiến tranh ý thức hệ.” Cộng
Sản
thì có chủ nghĩa Cộng Sản, còn phe Quốc Gia, có chủ
nghĩa gì? “Chủ nghĩa Quốc Gia”. Nhưng khi hỏi Chủ
nghĩa Quốc Gia như thế nào? Mấy ông lớn cũng lúng túng.
Chủ nghĩa Quốc Gia là “Tam dân” (6) hay “Độc lập,
Tự do, Hạnh Phúc”. Cái trước, ông Tôn Văn nói mà
không làm được. Cái sau, ông Hồ nói, nhưng làm thì
ngược lại. Một cách đơn giản, chủ nghĩa Quốc Gia là
chủ nghĩa Dân Tộc, là phải học về dân tộc, dân tộc
Việt Nam, là truyền thống chống Tàu một ngàn năm đô
hộ, chống Tây một trăm năm nô lệ, là lịch sử mở
mang bờ cõi về phương Nam. Khổ một nỗi, nói như vậy
là kẹt vì ở miền Nam nầy, trong chính quyền, trong quân
đội cũng có người từng theo Tây. Thầy nghĩ sao? Làm
tuyên úy, không lý chỉ có cầu an, cầu siêu. Vậy còn
“Từ bi - Hỉ xả” của Phật tổ nữa chi? Trong “Tình
Thầy Trò” có tha thứ, có hỉ xả đó thầy.”
Ông
đại đức băn khoăn: “Thầy cứ lúng túng trong cái chức
năng của mình hoài!”
- “Trong chương trình truyền thanh, truyền hình của Cục Tâm Lý Chiến,” - tôi nói - “họ thường
tuyên
truyền về ông Nguyễn Trãi. “Lấy
đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy chí nhân để thay
cường bạo.”
“Đại nghĩa” là cái nghĩa gì? “Đại nghĩa” là cái
nghĩa
lớn
đối với nước nhà, với quốc gia, dân tộc. Tiểu nghĩa
là cái nghĩa
nhỏ
hẹp hòi, cá nhân, ích kỷ. “Chí nhân” là cái lòng
thương lớn, cực điểm, là hết lòng. Tôi phải tìm
trong tự điển Hán Việt mới hiểu hết mấy chữ nầy
khi tôi dạy “Bình Ngô Đại cáo” cho học sinh. Mình lấy
cái truyền thống “Chí nhân” của Văn hóa Dân tộc để
chống lại “hận thù” của chủ nghĩa Cộng Sản. “Chí
nhân” là nền tảng Văn hóa Dân tộc. Không có “Chủ
nghĩa Dân tộc”, làm sao chống “Chủ nghĩa Quốc tế”.
Tôi không được học như thế trong các buổi học Chiến
tranh Chính trị.”
- “Cộng Sản còn chủ trương “giai cấp đấu tranh”. Xã hội mình đâu có phân chia giai cấp như bên Tây phương, bên Ấn Độ?” Ông đại đức nói với tôi.
- “Vô sản chống Tư sản. Thành phần như tôi với thầy là tiểu tư sản, tư sản. Binh lính của mình
phần
đông là nông dân, là vô sản, tiểu nông hay công nhân.
Người lính trơn chống Cộng Sản là họ chống cho chúng
mình hay họ chống cho họ, hay họ chống lại chính giai
cấp của họ? Khó lắm, trong trường hợp nầy, họ dễ
bị Cộng Sản tuyên truyền. Mình không làm cho “Chủ
nghĩa Dân Tộc”, “Chủ nghĩa Quốc Gia” sáng lên, không
lột mặt nạ chủ nghĩa Quốc tế của Cộng Sản thì
không chống Cộng được.”
- “Không hiểu, sau nầy, các sĩ quan xuất thân trường Chiến tranh Chính trị ra có làm sáng tỏ thêm cho binh lính những vấn đề nầy hay không?” Ông đại đức tuyên úy nói.
- “Vấn đề là bản chất thầy ạ. Thầy đọc “Chân Trời Tím” của Văn Quang chưa? Câu chuyện mở đầu bằng một anh trung sĩ. Anh ta sống, chiến đấu. Khi kết thúc câu chuyện, anh ta theo học khóa sĩ quan. Tại sao lại phải sĩ quan, như thầy, như tui? Nếu là hạ sĩ quan, binh sĩ, không chống Cộng được hay sao? Thầy nghĩ, có phải đó là bản chất giai cấp không?
Chúng
ta còn lúng túng trong mớ bòng bong đó nên khó khăn khi
chống Cộng bằng... mồm. Tổ tiên chúng ta đơn giản
hơn. “Tiến vi quan, thối vi nông”. Quan hay nông cũng chỉ
là một giai cấp. Nếu mọi người hiểu như vậy thì chủ
nghĩa Cộng sản không có đất sống ở xứ nầy.”
Một
lúc sau, tôi nói: “Thầy nhớ “Việt Nam Văn hóa Sử
cương” của Đào Duy Anh chớ! Trong đó, ông ta chỉ rõ:
Đơn vị căn bản của xã hội Việt Nam là Làng. Đất
nước yên vui thanh bình là từ làng mà ra; loạn lạc giặc
giã cũng từ làng mà ra. Chống ngoại xâm, giữ độc lập
cũng từ làng mà ra. Đạo Phật cũng từ làng, từ chùa
làng mà ra. Muốn bảo vệ miền Nam chống Cộng sản xâm
lược, trước tiên phải bảo vệ làng. Đạo Phật muốn
phục hồi, phát triển cũng phải bảo vệ làng, chùa
làng.
Làng là “hạ tầng cơ sở” của đất nước, của xã
hội, chính quyền miền Nam, cũng là “hạ tầng cơ sở”
của Đạo Phật. Củng cố, phát triển Chùa làng, khuôn
hội quan trọng hơn
đưa người vào ngồi ở Trung ương.”
- “Thật lý thú”, đại đức tuyên úy nói. “Ngày trước học với thầy mỗi tuần một bài “Công dân
Giáo
dục”, thấy hay thì quả là hay, nhưng không thực tế
như điều thầy nói bữa nay.”
Xong,
ông đại đức chấp tay chào tôi ra về, sau khi dặn dò
tôi “Rán giữ gìn sức khỏe”.
Lòng
tôi cứ cấn vương mãi về câu chuyện ông đại đức
tuyên úy đến thăm tôi hôm đó cho đến khi học xong giai
đoạn 1, nghỉ phép một tuần mà vô quân trường “Thủ
Đức” năm canh “thức đủ.”
hoànglonghải
_______________________________________________________________________
- Một bài hát của Phạm Duy.
- Nam kỳ thuộc địa, thuộc lãnh thổ Pháp. Người miền Nam ra học Hà Nội, thường gọi là “du học.”
- “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, câu nói của một ông già trong “Số Đỏ” của Vũ Trong Phụng.
- “Tước hữu ngũ, sĩ cư kỳ liệt,
Dân
hữu tứ, sĩ vi chi tiên.
Có
giang sơn thì sĩ đã có tên,
Từ
Chu, Hán vốn sĩ này là quí. ... (Nguyễn
Công Trứ).
- COCC là tóm tắt chữ “Con ông, cháu cha” thường phổ biến trong chế độ cũ, phê phán những người cũng đi lính, nhưng núp bóng cha ông để khỏi gian khổ, khỏi ra chiến trường, sống quanh quẩn ở các thành phố lớn hay Saigon.
- “Tìm và diệt” (dịch từ tiếng Anh: Search/ Seek and destroy), tên một chiến thuật quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam
- Chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Văn.